Người bệnh là anh Hoàng Văn T. (40 tuổi, trú tại Quảng Ninh), nhập viện trong tình trạng nuốt nghẹn kéo dài, chán ăn và mệt mỏi. Trước đó, anh từng được chẩn đoán có khối u dưới niêm mạc thực quản kích thước lớn, lan xuống thân vị dạ dày và đã được chỉ định phẫu thuật. Tuy nhiên, do lo ngại mức độ xâm lấn và biến chứng, người bệnh đã tìm đến nhiều cơ sở y tế trước khi quyết định điều trị tại Bệnh viện K với mong muốn được chẩn đoán chính xác và can thiệp tối ưu.
Tại đây, bệnh nhân được nhập viện điều trị tại khoa Ngoại Quán Sứ 1. Trước tính chất phức tạp của tổn thương, bệnh viện đã tổ chức hội chẩn liên khoa giữa Ngoại khoa, Nội soi và Gây mê hồi sức, với mục tiêu loại bỏ triệt để khối u nhưng vẫn bảo đảm an toàn, hạn chế tối đa xâm lấn cho người bệnh.
Bác sĩ nội soi cho bệnh nhân.
Kết quả thăm khám và siêu âm nội soi cho thấy bệnh nhân có khối u cơ trơn thực quản kích thước khoảng 16 x 50 mm, chiếm tới 4/5 chu vi lòng thực quản và lan rộng xuống vùng thân vị dạ dày - một trong những vị trí khó nhất trong can thiệp nội soi đường tiêu hóa.
Sau khi đánh giá kĩ lưỡng, các chuyên gia quyết định lựa chọn phương pháp nội soi ống mềm can thiệp qua khoang thứ ba. Đây là kĩ thuật cao, yêu cầu sự phối hợp chặt chẽ giữa ekip bác sĩ và hệ thống thiết bị hiện đại.
Ca can thiệp kéo dài khoảng 2 giờ, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của bác sĩ, TS. Bùi Ánh Tuyết, Trưởng khoa Nội soi - Thăm dò chức năng và bác sĩ, ThS. Trần Đức Cảnh, Phó Trưởng khoa. Toàn bộ khối u đã được bóc tách và cắt bỏ hoàn toàn, không ghi nhận tai biến hay biến chứng trong và sau thủ thuật.
Sau can thiệp, người bệnh tỉnh táo, hồi phục nhanh và có thể ăn uống trở lại sớm. Sau hai ngày theo dõi tại bệnh viện, anh T. được xuất viện trong tình trạng ổn định. Kết quả mô bệnh học xác định đây là u cơ trơn lành tính.
Theo TS. Bùi Ánh Tuyết, u cơ trơn là loại u lành tính thường gặp nhất trong nhóm u dưới niêm mạc thực quản, chiếm khoảng 60-70%. Phần lớn các khối u có kích thước nhỏ, tiến triển chậm và không gây triệu chứng. Tuy nhiên, khi u phát triển lớn trên 40-50 mm, người bệnh có thể xuất hiện các biểu hiện như nuốt nghẹn, chán ăn, sút cân và cần can thiệp điều trị. Trường hợp này được đánh giá là đặc biệt phức tạp do khối u lan rộng trong lớp cơ và chiếm gần toàn bộ chu vi lòng thực quản.
Trong can thiệp nội soi, hai nguy cơ lớn nhất là chảy máu và thủng thực quản. Với các khối u lớn, nguy cơ thủng thành thực quản gần như không thể tránh khỏi. Nếu không được kiểm soát tốt, tình trạng khí tràn vào trung thất có thể gây chèn ép tim, đe dọa trực tiếp đến tính mạng người bệnh. Vì vậy, can thiệp đòi hỏi bác sĩ nội soi được đào tạo bài bản, có kinh nghiệm, cùng sự phối hợp chặt chẽ của ekip Ngoại khoa và Gây mê hồi sức để sẵn sàng xử trí mọi tình huống phát sinh.
Bệnh nhân hồi phục ngay sau khi được bác sĩ can thiệp.
Kĩ thuật nội soi nhiều ưu điểm vượt trội
So với phẫu thuật mở truyền thống, các kĩ thuật nội soi can thiệp hiện đại mang lại nhiều ưu điểm vượt trội. Thông qua đường vào tự nhiên qua miệng, bác sĩ có thể loại bỏ hoàn toàn các khối u và tổn thương ung thư sớm ở đường tiêu hóa như thực quản, dạ dày, đại tràng mà vẫn bảo tồn cấu trúc giải phẫu. Phương pháp này giúp giảm đau, không để lại sẹo ngoài da, ít biến chứng, thời gian hồi phục nhanh và chi phí điều trị hợp lí.
Việc ứng dụng thành công kĩ thuật nội soi hiện đại tại Bệnh viện K không chỉ nâng cao hiệu quả điều trị mà còn cải thiện toàn diện chất lượng chăm sóc người bệnh, từ chẩn đoán, điều trị đến phục hồi. Thời gian tới, bệnh viện tiếp tục đầu tư trang thiết bị, đồng thời nâng cao năng lực đội ngũ y bác sĩ nhằm mở rộng phạm vi áp dụng các kỹ thuật ít xâm lấn, mang lại lợi ích tối ưu cho người bệnh.
Các bác sĩ khuyến cáo, để phát hiện sớm các khối u và ung thư đường tiêu hóa, người dân nên khám sức khỏe định kì và thực hiện nội soi tiêu hóa trên, kể cả khi chưa có triệu chứng.
Người trên 40 tuổi và những trường hợp có tiền sử gia đình mắc ung thư đường tiêu hóa cần đặc biệt lưu ý. Khi xuất hiện các dấu hiệu như nuốt vướng, ợ chua kéo dài, đau bụng, rối loạn đại tiện hoặc sút cân không rõ nguyên nhân, người dân nên đến cơ sở y tế chuyên khoa để được thăm khám và điều trị kịp thời.