Trong cuốn Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GS Đỗ Tất Lợi, trà tiên còn được gọi với nhiều tên khác như é, é trắng, tiến thực. Tên khoa học của cây là Ocimum basilicum L. var. pilosum (Willd.) Benth., thuộc họ Hoa môi (Lamiaceae).
Sở dĩ trà tiên có tên “tiến thực” là vì lá và hạt cây được coi là thực phẩm ngon, thường được dân gian dâng lên các bậc vua chúa trong quá khứ. Đó cũng là dấu ấn đặc biệt khiến trà tiên khác biệt với nhiều cây thuốc khác.
Trà tiên là cây thân thảo sống một năm, cao 0,5 – 1m, phân nhánh từ gốc tạo thành bụi. Thân cây vuông, màu xanh lục nhạt, phủ lớp lông mềm thưa. Lá mọc đối, phiến lá hình trứng dài 5 – 6cm, mép có răng cưa. Hoa mọc thành cụm xim co, tràng màu trắng, đài xanh, kết thành từng vòng quanh thân.
Cây trà tiên (Ảnh minh họa).
Quả trà tiên hình bầu dục, màu xám đen, bên trong chứa hạt. Khi ngâm nước, hạt hút nước, nở ra và tạo thành lớp màng nhầy trắng bao quanh – giống như hạt é vốn quen thuộc trong các loại nước giải khát. Toàn thân cây có mùi thơm nhẹ, pha giữa chanh và sả.
Hình thái trà tiên khá giống húng quế, song phân biệt ở chỗ cây có nhiều cành hơn, lá và hoa đều có lông.
Nguồn gốc của trà tiên chưa rõ ràng. Có giả thuyết cho rằng cây vốn mọc hoang ở Việt Nam, song cũng có ý kiến khẳng định loài này được di thực từ nước ngoài. Hiện nay, trà tiên được trồng tại một số vùng ở đồng bằng Bắc Bộ và Tây Nguyên.
Cây thường được gieo bằng hạt vào mùa xuân. Cành lá thu hái khi chưa ra hoa hoặc mới xuất hiện nụ. Có thể dùng tươi hoặc phơi khô trong bóng râm để làm thuốc. Ở miền Nam, người dân còn sử dụng hạt trà tiên như hạt é để làm nước uống. Ở miền Bắc, cách dùng này chỉ mới phổ biến từ thập niên 1970.
Trong Đông y, trà tiên có vị cay, tính ấm ở lá và cành; hạt lại có tính hàn. Nhờ đó, cây được xem là vị thuốc vừa thanh nhiệt, vừa giải biểu, vừa nhuận tràng.
- Hạt trà tiên: Thường ngâm nước uống để chữa táo bón, thanh nhiệt, hỗ trợ điều trị viêm đường tiết niệu.
- Lá và toàn cây trà tiên: Hãm hoặc sắc uống chữa cảm cúm, ho, đau bụng, ăn không tiêu. Nước sắc còn được dùng để xông giải cảm. Dùng lá giã đắp chữa viêm tấy.
- Tinh dầu trà tiên: Có tác dụng kháng khuẩn, lợi tiểu, được dùng trong điều trị viêm thận, viêm bàng quang.
Một số bài thuốc dân gian sử dụng trà tiên
- Chữa cảm cúm, sốt, đau đầu: Dùng 20 – 30g trà tiên tươi, phối hợp với lá bưởi, chanh, hương nhu, cúc tần, đun nước xông cho vã mồ hôi.
- Chữa táo bón: Lấy 4 – 12g hạt trà tiên ngâm trong nước ấm đến khi nở ra lớp nhầy, thêm đường và uống.
- Chữa đau bụng, chướng bụng: 10 – 20g lá trà tiên phơi khô hãm nước uống trong ngày.
- Chữa viêm bàng quang, đái buốt: Dùng 3 – 6 giọt tinh dầu trà tiên pha với siro và nước nhũ tương.
- Chữa ho, cảm cúm: 15 – 20g lá và thân cây trà tiên sắc uống.
- Giảm stress, mất ngủ: Dùng lá trà tiên ướp trà khô, uống hằng ngày.
Lưu ý khi dùng trà tiên
Mỗi ngày, có thể dùng 10 – 15g lá hoặc cành trà tiên phơi khô hãm uống. Hạt trà tiên dùng ngâm nước nhưng cần uống kèm đủ nước để tránh tắc ruột.
Ngoài ra, cần lưu ý:
- Không uống hạt trà tiên cùng lúc với thuốc tây mà cần uống cách nhau ít nhất một giờ.
- Tránh dùng trà tiên trước khi phẫu thuật.
- Không dùng trà tiên cho người bị tiêu chảy, có bệnh lý đường ruột.
- Phụ nữ có thai không nên sử dụng trà tiên.