BS Cao Thanh Phong (Chuyên ngành Y học cổ truyền, Cơ xương khớp và thần kinh cột sống, làm việc tại Hà Nội) kể, rất nhiều bệnh nhân thường hỏi anh nên tập bài gì để hết đau lưng? Tập bộ môn nào thì tốt cho cột sống?...
Có người thì bảo tập yoga để giãn cơ hoặc pilates để ổn định cột sống. Có người bảo phải nằm ngửa rồi thực hiện bài bắc cầu. Có người lại bảo phải nằm úp rồi thực hiện tư thế rắn hổ mang. Người thì bảo nên tập theo nhóm để sửa dáng cho nhau, có động lực tập các bài nặng hoặc động tác khó.
“Tất cả đều là những nhận định sai lầm”, BS Phong cho biết. Thay vì đưa ra bài tập để khắc phục đau lưng, người bệnh cũng như người dạy nên hiểu rõ:
1. Sự cá nhân hoá cho từng bệnh nhân là điều quan trọng nhất
Theo BS Phong, không thể cho 1 bệnh nhân bị giảm đường cong sinh lý tập các bài gập lưng hay cúi về phía trước. Điều này làm nhân nhầy bị đẩy về phía sau, gây giãn và rách các vòng xơ, kéo căng các nhóm cơ dựng sống quá mức ở 2 đầu điểm bám gân, khiến tình trạng thoát vị đĩa đệm nặng hơn và chèn ép vào ống sống.
2. Bệnh sử là yếu tố không thể bỏ qua
Khi tiếp nhận 1 bệnh nhân bị đau lưng trong thời gian dài, vật lý trị liệu và tập luyện không có hiệu quả nhưng không có bệnh án hay khai thác tiền sử bệnh thì nên cần thận. Cần giới thiệu đến các trung tâm y tế, bệnh viện chuyên khoa để thăm khám và làm các chỉ định xét nghiệm cận lâm sàng cần thiết. Bởi chúng ta cần loại trừ bệnh lý ác tính về cột sống (lao xương, ung thư di căn xương, u tủy sống).
3. Hiểu biết về giải phẫu người và chẩn đoán cận lâm sàng
Thường thì HLV yoga, pilates và PT gym sẽ chưa có đủ kiến thức về bệnh lý cũng như hiểu các chẩn đoán cận lâm sàng. Họ thường sẽ đánh giá cơ thể khách hàng dựa trên cảm quan về góc nhìn từ bên ngoài chứ chưa thể sâu vào bên trong hoặc không gian 3 chiều. Việc bệnh nhân nên đi thăm khám trước khi tập là cần thiết, vừa tạo điều kiện cho cơ thể nhanh phục hồi vừa giúp huấn luyện viên dễ dàng điều chỉnh chế độ tập luyện cá nhân hóa, tránh chấn thương không đáng có.
4. Trình độ về chuyên môn của huấn luyện viên
Xét về khía cạnh khám chữa bệnh, chắc chắn huấn luyện viên yoga, pilates hay PT gym sẽ không có đủ kiến thức tương đương với những người được đào tạo về ngành y, các bác sĩ chuyên khoa. Điều này có thể dẫn đến tình trạng hướng dẫn bệnh nhân tập ngược lại với chỉ định của bác sĩ, gây ra sự lo lắng và ngờ vực không đáng có. Nguy hiểm nhất là đưa ra các bài tập chống chỉ định cho những bệnh nhân nặng và nguy cơ tăng nặng.
Để minh chứng cho điều này, BS Cao Thanh Phong chia sẻ một trường hợp bị hở eo L4, trượt đa tầng L5/S1 lại được HLV yoga hướng dẫn các bài tập yoga giãn tối đa cơ thể sang 2 bên kèm cúi gập về phía trước, ưỡn tối đa về phía sau. Hình ảnh cho thấy tình trạng bệnh thêm đáng quan ngại, như lời cảnh báo mọi người khi có vấn đề bệnh lý nên đi thăm khám bác sĩ trước, tránh những hậu quả đáng tiếc.
Cột sống bệnh nhân bị hở eo L4, trượt đa tầng L5/S1
Sai lầm khi nghĩ Yoga và Pilates là những cách tuyệt vời để giảm đau lưng, trích trong cuốn "Đau lưng tự chữa bệnh không cần phẫu thuật" của MC.Gill, được BS Hoàng Hồng Quân và BS Trần Trung An (Hội Thoát vị đĩa đệm và bệnh cơ xương khớp Việt Nam) dịch, cũng ghi nhận:
Sự thật: Mặc dù nhiều bác sĩ và nhà trị liệu đề xuất các bài tập yoga và pilates cho bệnh nhân của họ vì tính chất trị liệu của nó. Nhưng các nghiên cứu của chúng tôi không ủng hộ điều này, thực tế áp dụng trên bệnh nhân đã xuất hiện những hiệu quả ngược lại. Mặc dù một số tư thế có thể mang lại cảm giác dễ chịu ngay khi về lâu dài nó sẽ nặng thêm các triệu chứng cột sống của bệnh nhân. Theo tôi không có chương trình tập thể dục nào có lợi cho tất cả những người bị đau lưng. Việc chỉ định yoga và pilates một cách bừa bãi cho tất cả bệnh nhân bị đau lưng mà chưa rõ nguyên nhân gây đau là vô trách nhiệm.
Những bài tập nên được phân tích rõ về tác dụng và sửa đổi sao cho phù hợp với từng bệnh nhân.
Một trong những vấn đề nguy hiểm của Pilates đó là nguyên tắc chính trong tập luyện của nó là làm phẳng cột sống và làm cho phần lưng "in" xuống mặt sàn khi nằm ngửa. Hành động cố ý này khiến cho cột sống bị di lệch ra khỏi tư thế trung tính và làm mất đi đường cong tự nhiên, điều này cực kỳ nguy hại vì nó cũng chính là cơ chế tổn thương cột sống của nhiều người.
Một số người cảm thấy nhẹ nhõm giả tạo khi thực hiện chuyển động này vì nó kích thích kéo căng cơ lưng. Trên thực tế, sự nhẹ nhõm này là thoáng qua và các triệu chứng đau lưng thường quay trở lại một cách đau đớn hơn do tăng áp lực đĩa đệm.
Một động tác khác của bộ môn Pilates gọi là Rollup2. Chuyển động này về cơ bản là một động tác ngồi lên liên quan đến việc kéo căng từng khớp của cột sống. Những nghiên cứu khoa học của chúng tôi đã chứng minh việc tránh ngồi dậy sai cách là một thói quen quan trọng để có một cột sống khỏe mạnh. Rollup là về cơ bản là một bài tập không tốt và khiến các triệu chứng của bạn trở nên tồi tệ hơn. Bài tập này khiến áp lực đĩa đệm tăng cao (một điều rất rất nên tránh ở bệnh nhân đau lưng). Khi bạn tìm hiểu sâu hơn về trị liệu cột sống, bạn sẽ thấy rằng chúng ta cần tập trung vào làm giảm thiểu sự chuyển động của cột sống và thay vào đó là sử dụng khớp háng làm khớp chuyển động chính. Nguyên tắc này sẽ được áp dụng xuyên suốt, bạn sẽ bắt gặp trong các chương tiếp theo.
Như chúng ta đã thảo luận, một bài tập trị liệu phải được xây dựng chuyên biệt cho từng bệnh nhân khác nhau sau khi đánh giá chi tiết cơ chế tổn thương. Nhiều bác sĩ chỉ định cho bệnh nhân liệu pháp Pilates một cách ồ ạt vì tin vào những luận điểm chưa được kiểm chứng rằng Pilates tốt cho cột sống. Điều này cần phải dừng lại ngay. Đừng hiểu sai ý tôi, là tôi cho rằng yoga và pilates không tốt, tôi đã gặp rất nhiều chuyên gia về yoga và pilates khi tham gia các khóa học lâm sàng có chuyên môn rất tốt trong việc chọn các bài tập cụ thể phù hợp cho từng bệnh nhân. Những người này hướng dẫn bệnh nhân tầm quan trọng của việc nhận thức rõ tầm quan trọng của việc tránh các tác nhân gây đau và điều chỉnh tư thế làm sao cho bệnh nhân thoát khỏi cơn đau. Điểm mấu chốt quan trọng ở đây là: Phải tùy chỉnh các động tác sao cho phù hợp với từng bệnh nhân riêng biệt, không thể sử dụng một giáo trình chung, cho những bệnh nhân khác nhau mắc các bệnh không giống nhau.