Giữa vùng đất đỏ của Tây Nguyên, nơi khí hậu khô khắc nghiệt và thiên nhiên hoang sơ, có một loài cây dân dã, mộc mạc nhưng lại gắn bó mật thiết với đời sống người bản địa, đó là cà đắng. Thứ quả dại này mang một hương vị rất riêng, dù có vị đắng nhưng càng ăn càng mê.
Cận cảnh lá, quả, hoa cây cà đắng. Ảnh: internet.
Cà đắng ngày nay đã được nhiều người dân chủ động vun xới, đưa vào bữa ăn hằng ngày và dần trở thành đặc sản dân dã được ưa chuộng. Quả cà đắng nhỏ bằng ngón tay cái, vỏ xanh lốm đốm trắng, cuống nhiều gai nhỏ. Bên trong là lớp ruột mềm chứa đầy hạt, vị đắng chát lan nhanh nơi đầu lưỡi khi nếm thử. Nhưng khi chế biến thành món ăn, hương vị của trái cà đắng lại vô cùng cuốn hút.
Không cần quá cầu kỳ trong chế biến, người dân nơi đây chỉ cần chút muối hột, ớt rừng và cối đá là có thể giã nhuyễn cà đắng thành món chấm đầy hương vị. Đây từng là món ăn quen thuộc trong những buổi làm rẫy dài ngày, gọn nhẹ, dễ mang theo.
Theo người dân các tỉnh Tây Nguyên và một số vùng trung du, cà đắng vốn là cây khỏe, dễ sống, ít sâu bệnh, trước kia mọc tự nhiên quanh nhà hoặc trong rẫy. Thời gian gần đây, khi ẩm thực bản địa được quan tâm hơn, cà đắng được trồng có chủ đích, chăm sóc kỹ lưỡng để cho quả đều, ít hạt, vị đắng vừa phải. Cà thường được thu hoạch khi còn non, lúc này thịt quả giòn, vị đắng thanh và không quá gắt.
Trong nhiều cách chế biến, cà đắng nấu với thịt ba chỉ được xem là món "đúng điệu" nhất. Thịt ba chỉ với lớp mỡ vừa phải giúp trung hòa vị đắng của cà, khi nấu lên tạo nên nước canh ngọt tự nhiên, béo nhẹ nhưng không ngấy. Cà đắng được cắt khúc, xào sơ cùng hành, ớt rồi cho thịt ba chỉ vào đảo đều trước khi thêm nước và gia vị. Khi chín, cà mềm nhưng vẫn giữ độ giòn, vị đắng dịu lại, quyện cùng vị béo của thịt, tạo cảm giác lạ miệng mà càng ăn càng cuốn.
Không cầu kỳ nguyên liệu hay cách nấu, món cà đắng nấu ba chỉ thường xuất hiện trong mâm cơm gia đình, đặc biệt là những ngày mưa hoặc lúc se lạnh. Với nhiều người, đó không chỉ là món ăn mà còn gợi nhớ ký ức về bếp lửa, về bữa cơm quê giản dị nhưng đậm đà hương vị núi rừng.
Ngoài ra, cà đắng còn được phơi khô, nấu cùng đậu đen, nấm mèo hay xương đầu heo để làm canh trong mùa khô. Hương vị đắng đặc trưng kết hợp với các nguyên liệu dân dã đã tạo nên những món ăn vừa gần gũi vừa mang tính khám phá đối với thực khách phương xa.
Du khách đến Tây Nguyên vào mùa cà đắng thường không quên mua vài cân mang về làm quà. Trên các chợ mạng, cà đắng hiện được bán phổ biến với giá khoảng 90.000 – 120.000 đồng/kg, tùy theo mùa và độ tươi của quả.
Ngày nay, cà đắng đã có mặt ở nhiều chợ dân sinh, thậm chí được đưa vào thực đơn của một số quán ăn chuyên món bản địa. Từ loại quả mọc dại ít người để ý, cà đắng đang dần khẳng định vị trí trong ẩm thực Việt, như một minh chứng rằng những hương vị mộc mạc, nguyên bản vẫn luôn có chỗ đứng riêng, chỉ cần được nấu đúng cách và thưởng thức đúng điệu.
Không ăn sống vì chứa solanine; nấu chín kỹ (hấp, luộc, om) để giảm độc tính và tính hàn; tránh ăn quá nhiều (khoảng 150-200g/lần, 1-2 lần/tuần) để không gây đầy bụng; ăn vào buổi trưa thay vì tối và kết hợp với thực phẩm có tính ấm như gừng, tỏi để cân bằng âm dương.
Người có hệ tiêu hóa yếu: Cần thận trọng, không ăn quá nhiều để tránh đầy bụng, tiêu chảy.
Phụ nữ có thai: Cần tham khảo ý kiến bác sĩ, dù chưa có bằng chứng rõ ràng, nhưng nên ăn lượng hợp lý trong chế độ ăn cân bằng.
Tóm lại, ăn cà đắng đúng cách giúp tận dụng lợi ích sức khỏe như chống oxy hóa, tốt cho tim mạch, nhưng cần lưu ý chế biến để giảm độc tố và tính hàn, đồng thời kiểm soát lượng ăn để tránh tác dụng phụ không mong muốn.
(Theo saostar, kienthuc)