Tại hội thảo “Ung thư vú – Từ tầm soát đến điều trị” tổ chức tại TP.HCM, các chuyên gia ung bướu nhận định: điều trị thành công ung thư vú cần phối hợp đa mô thức, từ tầm soát, chẩn đoán đến điều trị.
Hội thảo do PGS.TS.BS Cung Thị Tuyết Anh - chuyên gia đầu ngành tại Việt Nam trong lĩnh vực ung thư - làm chủ tọa, với sự tham gia của 550 bác sĩ.
PGS.TS.BS Cung Thị Tuyết Anh (giữa) làm chủ tọa của Hội thảo
Chẩn đoán ung thư vú theo hướng cá thể hóa
Theo số liệu của GLOBOCAN 2022, Việt Nam có 24.563 ca ung thư vú, chiếm 13,6% tổng số ca ung thư trong nước. Bác sĩ CKI Phùng Ngọc Thư – Chuyên gia Chẩn đoán hình ảnh, Khoa Sản phụ khoa và Trung tâm điều trị bệnh lý tuyến vú, Bệnh viện FV chia sẻ, do được phát hiện ở giai đoạn trễ nên việc điều trị tốn kém và tỷ lệ tử vong do ung thư vú ở Việt Nam lên tới 8,3%. Vì vậy, vai trò của sàng lọc, chẩn đoán ung thư vú rất quan trọng.
Để chẩn đoán ung thư vú, bệnh nhân cần được khám lâm sàng, sau đó được sàng lọc chẩn đoán bởi bác sĩ chẩn đoán hình ảnh. Hiện có nhiều phương pháp chẩn đoán hình ảnh như Xquang, MRI, siêu âm Second look, sinh thiết hỗ trợ hút chân không… Gần đây, trí tuệ nhân tạo (AI) cũng được ứng dụng trong chẩn đoán hình ảnh.
Tuy vậy, theo bác sĩ Thư, không có phương tiện chẩn đoán nào là hoàn hảo. Tầm soát ung thư vú không có công thức chung mà cần theo hướng cá thể hóa, trong đó bác sĩ phải biết phối hợp dựa trên những thiết bị mà trung tâm đang có. Bác sĩ Thư cũng đánh giá cao vai trò khám lâm sàng, coi đây là bậc thang đầu tiên mở ra sự chẩn đoán toàn diện và chăm sóc đạt chuẩn.
“Phụ nữ nên khám vú lần đầu tiên ở tuổi 25 để xác định yếu tố nguy cơ. Phụ nữ tuổi 40 được khuyến nghị chụp nhũ ảnh; tuy vậy đối tượng có yếu tố nguy cơ thì có thể tiến hành nhũ ảnh lần đầu tiên ở tuổi 30”, bác sĩ Thư khuyến cáo.
Các kỹ thuật tiên tiến trong phẫu thuật ung thư vú
TS.BSCKII Trần Việt Thế Phương – Phó trưởng khoa Ngoại tuyến vú, Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM cho biết, dù ngày nay có nhiều phương pháp điều trị ung thư vú song phẫu thuật vẫn là kỹ thuật điều trị quan trọng.
Có ba phương pháp phẫu thuật chính: Phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tuyến vú, Phẫu thuật bảo tồn vú và Phẫu thuật cắt bỏ vú có tái tạo. Trong khi Phẫu thuật bảo tồn hạn chế xâm lấn, được áp dụng cho 60-70% các trường hợp ung thư vú ở phương Tây thì tại Việt Nam việc áp dụng kỹ thuật này còn thấp do đa số bệnh nhân Việt Nam lo ngại rằng việc điều trị cắt một phần vú là không đủ an toàn nên họ sẵn sàng cho các cuộc mổ lớn hơn.
Di căn hạch nách là yếu tố tiên lượng quan trọng nhất trong ung thư vú. Trước đây khi điều trị ung thư vú thường sẽ phải nạo toàn bộ hạch. Các biến chứng thường gặp là phù tay, tổn thương dây thần kinh cảm giác, ảnh hưởng vận động khớp vai, tổn thương mạch máu nách… Giờ đây, bác sĩ áp dụng sinh thiết hạch lính gác – được xem là chốt chặn đầu tiên trên con đường dẫn lưu bạch huyết của tế bào ác tính. Nếu có tế bào ác tính thì mới cần nạo vét hạch nách. Ngoài ra, có thể kết hợp xạ trị thay vì nạo hạch hoàn toàn để giảm tác dụng phụ.
Mục tiêu của phẫu thuật là đạt kết quả cao, đồng thời ít tổn hại nhất cho bệnh nhân, vì thế nhiều trường hợp cần phối hợp với bác sĩ ung thư nội khoa và xạ trị để có chiến lược điều trị tối ưu.
ThS.BS Võ Kim Điền
Trong hội thảo, ThS.BS Võ Kim Điền – Phó Trung tâm Điều trị Ung thư Hy Vọng, Bệnh viện FV đề cập tới tầm quan trọng của liệu pháp toàn thân tân hỗ trợ (Neoadjuvant systemic therapy). Đây là phương pháp điều trị ung thư vú có sự kết hợp hóa trị, liệu pháp nội tiết, hoặc liệu pháp nhắm trúng đích trước khi phẫu thuật nhằm thu nhỏ khối u, tăng khả năng bảo tồn vú và khả năng đáp ứng điều trị.
Trước kia nhiều các ca phẫu thuật ung thư vú thất bại do di căn xa, ngày nay với việc điều trị tân hỗ trợ toàn thân sẽ kiểm soát được ung thư di căn, tăng khả năng thành công cho phẫu thuật. “Hiện tại, chỉ cần bướu >2cm, có hạch thì cần tới vai trò của liệu pháp toàn thân tân hỗ trợ”, bác sĩ Điền nhấn mạnh.
Xạ trị ngắn ngày và xạ trị áp sát: điều trị nhanh hơn, giảm tác dụng phụ, bảo vệ mô lành
Xạ trị là kỹ thuật quan trọng trong điều trị ung thư vú. Bác sĩ Basma M’Barek – Trưởng Trung tâm Điều trị Ung thư Hy Vọng, Bệnh viện FV cho biết, áp dụng liệu trình xạ trị ngắn ngày với liều tăng cường ở mỗi lần xạ để rút ngắn phác đồ xạ trị từ 6 tuần xuống 3 tuần.
Phương pháp xạ trị này có nhiều ưu điểm: giảm thời gian điều trị, giảm chi phí điều trị, đồng thời tiết kiệm nguồn lực y tế. Khi xạ trị cho bệnh nhân ung thư vú trái, để tránh liều bức xạ đến tim, bệnh viện áp dụng kỹ thuật hít sâu nín thở: bệnh nhân được yêu cầu hít sâu trong quá trình điều trị, và nín thở trong khi chiếu xạ. Khi hít sâu, phổi lấp đầy không khí và tách tim với thành ngực.
“5 năm qua, xạ trị rút ngắn được áp dụng cho 426 bệnh nhân, kết quả cho thấy hầu như không có các biến chứng thường thấy ở xạ trị truyền thống như ảnh hưởng đến tim, phổi, phù tay”, bác sĩ Basma cho biết.
Kỹ thuật xạ trị áp sát, hay còn gọi là xạ trị trong, để điều trị ung thư cổ tử cung từ năm 2022, thống kê cho thấy rất hiệu quả và an toàn cho bệnh nhân. “Xạ trị áp sát tiếp cận sát khối u để tiêu diệt tế bào ung thư một cách hiệu quả. Theo đó, một dụng cụ được đặt bên trong cơ thể người bệnh, đưa nguồn phóng xạ đến trực tiếp khu vực có khối u. Nhờ vậy, tia xạ không phải đi qua các cơ quan lành trong cơ thể, giảm thiểu tác dụng phụ, đồng thời có thể đưa một lượng xạ cao tập trung vào khối u, rút ngắn thời gian điều trị”, bác sĩ Basma giải thích.