Sinh con không cần tinh trùng lẫn trứng

A. Thư, Theo Người Lao Động 12:15 04/05/2018

Mục đích thử nghiệm nhằm tìm ra phác đồ điều trị vô sinh nhưng nhiều người vẫn lo ngại công nghệ này sẽ bị lợi dụng để tạo ra con người vô tính.

Tuy phôi thai đó chỉ mới được tạo ra thành công trong thử nghiệm động vật, tức trên chuột, nhưng các nhà khoa học rất hy vọng chuột con sẽ được sinh ra thành công, khỏe mạnh và sau đó họ có thể tiếp tục thử nghiệm trên phôi người.

Sinh con không cần tinh trùng lẫn trứng - Ảnh 1.

Phôi thai vô tính được tạo nên nhằm mục đích thử nghiệm thuốc - ảnh: SHUTTERSTOCK

Giáo sư Nicholas Rivron đến từ Đại học Maastricht (Hà Lan) là người đứng đầu nghiên cứu. Ông dự tính sẽ mất 3 năm để tạo ra một phôi chuột hoàn hảo, đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn sinh học. Việc tạo ra phôi người thì có thể mất đến 2 thập kỷ.

Khi các tế bào gốc được đưa vào tử cung người mẹ, chúng đã đóng vai trò không khác gì của một bào thai thực thụ và tạo ra những phản ứng, thay đổi trong cơ thể chuột mẹ y như khi nó có con theo cách bình thường.

Mục đích chính để tạo ra các phôi này chỉ là thử thuốc, nhằm tìm ra các phác đồ điều trị vô sinh hiệu quả hơn.

Giáo sư Nicholas Rivron cho biết họ không hề mong muốn tạo ra con người từ công nghệ này bởi việc nhân bản vô tính con người là một câu hỏi lớn về đạo đức. Lý do họ cố tạo ra một phôi vô tính không có cha mẹ sinh học cũng liên quan đến việc các thử nghiệm trên phôi người bình thường, vốn không được phép từ đa số các quốc gia và bị lên án về mặt đạo đức.

Tuy nhiên, nhiều người vẫn lo ngại rằng công nghệ này sẽ bị lộ ra ngoài và bị lợi dụng để tạo nên những con người vô tính.

Bình luận về vấn đề trên, giáo sư Robin Lovell đến từ Viện Francis Crick (London - Anh) khẳng định chúng ta không nên quá lo lắng. Tạo ra một phôi thai không cần tinh trùng lẫn trứng đòi hỏi một quy trình phức tạp, công nghệ cao và vì vậy, công nghệ này sẽ rất khó bị nhái.

Tiến sĩ Dusko Ilic, người đứng đầu đơn vị Khoa học tế bào gốc của King’s College London, cho biết ông hy vọng công nghệ này có thể giúp chúng ta hiểu hơn về một khía cạnh của vô sinh, từ đó cải thiện kết quả các biện pháp hỗ trợ sinh sản.

Nghiên cứu vừa được đăng tải trên tạp chí khoa học Nature.

Theo Express, Daily Mail