Cây bần là một trong những loại cây mọc dại, có nhiều ở miền Tây. Cây bần gắn liền với một giai thoại liên quan đến vua Gia Long trong những ngày gian khó. Theo đó, khi vua Gia Long gặp nạn gần sông Tiền trong trận Rạch Gầm - Xoài Mút và lưu lạc đến miền Tây Nam Bộ, sống nương nhờ vào sự giúp đỡ, che chở của người dân, ông được thưởng thức món canh chua trái bần. Sau này, dù trong cung không thiếu của ngon vật lạ, vua Gia Long vẫn luôn yêu thích, nhớ nhung về món canh chua trái bần.
Bần là loại cây sống trong môi trường bùn nước, có bộ rễ rộng, khả năng chịu ngập và tái sinh, đâm chồi mạnh, có tác dụng tốt trong việc giữ đất, chắn sóng, chống sạt lở dọc các sông rạch...
Trước kia, quả bần ít được để ý. Tuy nhiên, hiện nay quả bần trở thành đặc sản của miền Tây, với hương vị đặc trưng chua chua, bùi bùi.
Quả bần thường được người miền Tây chế biến thành nhiều món ăn dân dã. Quả bần chua có thể ăn sống và chấm kèm với các loại mắm được chế biến từ thủy sản. Quả bần chín dùng để nấu canh chua, kho cá hoặc dầm với nước mắm, đường, bột ngọt để chấm rau lang, rau muống luộc...
Tác dụng của quả bần
BSCKII Huỳnh Tấn Vũ, Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM, cho hay quả bần không chỉ đem lại giá trị sinh thái, ẩm thực, kinh tế mà còn có giá trị y học. Cây bần có tên khoa học là Sonneratia caseolaris (L.) Engl, thuộc họ Bần - Sonneratiaceae. Cây bần là loài cây sinh sống ở khu vực rừng ngập mặn nhiệt đới.
Ở Việt Nam, cây bần mọc hoang và được trồng ở rừng ngập mặn ven biển từ Bắc vào Nam, nơi có nhiều bùn và bãi bồi.
Theo bác sĩ Vũ, cây bần chứa các thành phần hóa học như sau:
- Vỏ thân chứa 10 – 20% tannin, archinin, archin, chất màu;
- Gỗ bần chứa 17.6% pentosan có màu nâu và 8.5% lignin;
- Quả bần chứa chất màu, archicin, archin, 11% pectin và 2 chất flavonoid.
Y học hiện đại đã chứng minh chiết xuất từ cây bần có tác dụng chống oxy hóa, hạ đường huyết và kháng khuẩn. Dịch chua từ trái bần có tác dụng bảo vệ tế bào gan, gây độc đối với ấu trùng muỗi và chống viêm.
Quả, lá bần được dùng làm thuốc
Trong Y học cổ truyền, quả bần và lá bần có nhiều dược tính, được dùng làm thuốc chữa bệnh.
Quả bần có vị chua, tính mát có tác dụng tiêu viêm, giảm đau. Trong dân gian còn sử dụng quả bần để chữa bong gân và vết thương hở bị chảy máu.
Để chữa bong gân, viêm tấy, mọi người có thể dùng quả bần non, rửa sạch, giã nát và đắp lên vùng sưng tấy hoặc dùng băng cố định và thay 1 lần/ngày.
Bác sĩ Vũ cho hay lá bần có vị chát, tính mát có tác dụng cầm máu, chữa bí tiểu tiện, đắp vết thương. Với trường hợp bí tiểu, mọi người có thể giã lá bần lẫn với quả bần làm thuốc đắp vào bụng dưới. Với trường hợp chảy máu, mọi người có thể giã lá bần và đắp lên vết thương.
Theo bác sĩ Vũ, quả và lá bần không chứa độc nên có thể sử dụng để ăn trực tiếp hoặc chế biến thành các món ăn. Tuy nhiên, quả bần có vị chua, do đó mọi người nên tránh ăn khi bụng đói và cần thận trọng khi dùng cho bệnh nhân bị viêm loét dạ dày, tá tràng. Chuyên gia cũng lưu ý, trước khi sử dụng quả hoặc lá bần làm thuốc, người dân nên tham khảo ý kiến của bác sĩ có chuyên môn về y học cổ truyền.