Con hay kêu đau chân, đến khi ngã nhẹ đã gãy xương mẹ mới biết con mắc bệnh nguy hiểm

Ngọc Anh, Theo Doanh nghiệp và Tiếp thị 00:30 15/03/2021

Ung thư xương là bệnh tiến triển từ từ, triệu chứng không rõ ràng nên người bệnh thường đến viện ở giai đoạn muộn. Tỷ lệ nam giới mắc bệnh nhiều hơn nữ.

Phát hiện bệnh từ việc ngã xe máy

Em N.Đ.H., 17 tuổi, quê Thái Bình được gia đình đưa đi cấp cứu vì chỉ sau 1 lần ngã xe máy mà đột nhiên xương đùi gãy nặng. Tai nạn ngã xe rất đơn giản nhưng H. bị gãy xương, khi đến bệnh viện bó vết thương thì xương ngày càng gãy. Bác sĩ chẩn đoán em H. bị gãy xương tự nhiên.

Gia đình đưa lên tuyến trên điều trị, kết quả bất ngờ nguyên nhân gãy xương tự nhiên là do H. bị ung thư xương.

Trước đó, em H. thường kêu với mẹ đau chân nhưng mẹ của em cho rằng do H. ham chơi bóng đá có thể bị chấn thương phần mềm mà không nghĩ con đang mang căn bệnh nguy hiểm.

TS.BS Dương Đình Toàn - Phó Trưởng khoa Khám Xương, Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức cho biết ung thư xương nguyên phát hay gặp ở lứa tuổi từ 1-12 tuổi, chiếm 0,2 % trong tất cả các loại ung thư nguyên phát, đứng thứ 6 trong tất cả các loại ung thư nguyên phát ở trẻ em.

Ung thư xương có tỷ lệ tử vong cao, đặc biệt ở những người trẻ. Tại Mỹ, tỷ lệ ung thư xương nguyên phát được chẩn đoán hàng năm khoảng 3300 ca, trong đó phần nửa số ca tử vong trong năm đầu tiên sau khi phát hiện bệnh.

Con hay kêu đau chân, đến khi ngã nhẹ đã gãy xương mẹ mới biết con mắc bệnh nguy hiểm - Ảnh 1.

Dấu hiệu của ung thư xương như thế nào?

Theo bác sĩ Toàn, các loại ung thư nguyên phát hệ xương khớp thường gặp nhất theo thứ tự: ung thư xương (Osteosarcoma) chiếm 35%, ung thư sụn (Chondrosarcoma) chiếm 25%, ung thư Ewing (Ewing sarcoma) chiếm 16%, u mô sợi ác tính (Malignant fibrous histiocytoma) chiếm 5%.

Trong ung thư xương nguyên phát thì ung thư xương thể nội tuỷ gặp phổ biến. 50% các tổn thương xuất hiện vùng quanh gối (đầu dưới xương đùi, đầu trên xương chầy) của trẻ em và người trẻ.

Ngoài ra tổn thương có thể gặp ở các vị trí khác như đầu trên xương đùi, đầu trên xương cánh tay, xương chậu. 90% ung thư xương thể nội tuỷ có độ ác tính cao, phá huỷ thành xương, xâm lấn phần mềm tạo thành khối ở phần mềm lân cận. Tỷ lệ di căn phổi khoảng 10-20%.

Dấu hiệu của bệnh

Thứ nhất, dấu hiệu của ung thư xương đó là triệu chứng đau. Đây là triệu chứng phổ biến khiến người bệnh quan tâm đến bệnh và đi khám.

Ban đầu đau không hằng định, có thể tăng, cũng có thể giảm hoặc mất đi theo thời gian, về sau đau âm ỉ liên tục, đau tăng nhiều về đêm và không đáp ứng với các thuốc giảm đau thông thường. Đau có thể liên quan hoặc không liên quan đến vận độ.

Thứ hai, sờ thấy u tuỳ vào đặc điểm, nguồn gốc, khả năng xâm lấn phần mềm của các khối u, người bệnh có thể tự sờ thấy một hoặc nhiều khối u trên một vùng chi thể hoặc tại nhiều vị trí khác nhau.

Thứ ba, khó vận động, khi khối u căng, cứng, cố định vào xương. Bề mặt khối u ấm nhưng không phải là viêm. Nếu để muộn, khối càng ngày càng to nhanh, da căng bóng, có tuần hoàn bàng hệ. Khối xuất hiện vùng khớp gây hạn chế biên độ vận động khớp.

Thứ tư, trong một số trường hợp phát hiện bệnh vì gãy xương tự nhiên.

Con hay kêu đau chân, đến khi ngã nhẹ đã gãy xương mẹ mới biết con mắc bệnh nguy hiểm - Ảnh 2.

Ảnh minh họa

Ngoài ra, người bệnh còn có các triệu chứng toàn thân như sốt, sụt cân, thay đổi màu da, nổi hạch bạch huyết.

Khi có các dấu hiệu trên, người bệnh đi khám các bác sĩ chỉ cần chụp Xquang. Đây là phương pháp rất hữu ích trong chẩn đoán ung thư xương.

Có hai loại tổn thương chính: Tiêu xương: gặp đa số trong sarcoma xương. Trên phim, vỏ xương bị ăn mòn, tiêu huỷ, thưa xương.

Trên phim có hình ảnh xương có vùng đậm đặc, có phản ứng màng xương với nhiều vệt cản quang hình gai nhọn tua tủa giống tia mặt trời. Có thể chụp thêm CT để đánh giá xâm lấn phần mềm.

Trường hợp tổn thương u xương khó phân biệt lành tính hay ác tính trên các phương tiện chẩn đoán hình ảnh có thể tiến hành sinh thiết xác định ung thư xương.

Việc điều trị ung thư xương tùy vào từng giai đoạn có thể đưa ra quyết định. Việc điều trị hoá chất làm hoại tử tế bào ung thư, nhiều trường hợp có thể phá huỷ đến 80-90% khối u.

Điều trị hóa chất trước khi mổ làm giảm số lượng cũng như kìm hãm sự phát triển của tế bào ung thư xung quanh khối u, từ đó có thể loại bỏ u (cắt đoạn xương), bảo vệ mô lành, bảo tồn chi thể. Điều trị hoá chất tỷ lệ sống sau 5 năm có thể lên tới 50%.

Với những người khi u xâm lấn phần mềm lan rộng sẽ phải cắt cụt. Tỷ lệ sống trên 5 năm chỉ khoảng 20%, thường bệnh nhân tử vong do di căn phổi.