Ké hoa đào còn có tên là ké hoa đỏ, thổ đỗ trọng, hồng hài nhi, dã mai hoa, dã miên hoa, dã đào hoa..., có tên khoa học Urena lobata Linn. Họ Bông - Malvaceae.
Theo báo Đà Nẵng, sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của GS.TS Đỗ Tất Lợi chép: "Ké hoa đào là một cây nhỡ cao chừng 1m, có cành mang nhiều lông mịn hình sao. Lá gần tròn, đường kính 4-6cm, có khi tới 9cm, gân lá hình chân vịt (gồm 3 - 7 gân), mép có răng cưa và chia thùy, đầu lá nhọn phía cuối bằng hay hơi bằng, mặt trên màu xanh, mặt dưới màu tro nhạt có nhiều lông hình sao. Hoa có cánh màu hồng, mọc đơn độc hay thành đôi ở kẽ lá, đường kính chừng 1,7cm. Quả hình cầu dẹt, có lông, trên có những gai hình móc, đường kính 7-8mm, hạt có vân dọc và có lông gợn ngắn. Mùa hoa suốt hạ và thu. Người ta dùng toàn cây hoặc lá phơi khô hay dùng tươi. Thu hái tốt nhất vào mùa hạ và mùa thu".
Ké hoa đào là một loài thực vật mọc hoang phổ biến ở các vùng núi phía Bắc nước ta.
Không chỉ có ở Việt Nam, ké hoa đào còn phân bố tại một số quốc gia khác như Trung Quốc, Ấn Độ.
Điều đáng nói, tại xứ người, loài cây này bị coi là "thực vật gây hại". Trước đây, ké hoa đào thường mọc nhiều trên các cánh đồng ở Trung Quốc, chúng thường bị nông dân nhổ bỏ vì sợ rằng chúng cướp mất chất dinh dưỡng của cây trồng.
Theo thời gian, loài cây "đáng ghét" trong mắt nông dân ngày nào giờ lại trở thành một mặt hàng xa xỉ trong giới dược liệu.
Bước ngoặt xảy ra vào năm 2000 khi giá dược liệu Trung Quốc tăng vọt, ké hoa đào bỗng trở thành cây thuốc được "săn lùng" với giá cao nhất từng lên đến 160 NDT (hơn 500.000 đồng)/kg cho loại khô vào thời điểm đó.
Hiện tại, mức giá dao động từ 44 - 68 NDT (159.000 - 246.000 đồng)/kg. Tại Việt Nam, ké hoa đào sấy khô hiện được bán phổ biến với giá khoảng 100.000 - 120.000đ/kg.
Ở Việt Nam lẫn Trung Quốc, ké hoa đào đều được sử dụng như một vị thuốc dân gian với nhiều công dụng quan trọng.
Thông tin trên Sức khoẻ & Đời sống , theo Đông y, ké hoa đào có vị ngọt dịu, tính mát, không độc, vào 2 kinh phế và tỳ, có tác dụng trừ phong, lợi thấp, thanh nhiệt, giải độc. Dùng chữa đau nhức, phong thấp, thủy thũng, tiểu tiện khó, khí hư, tiêu hóa kém, bướu giáp… Dùng ngoài chữa vết thương phần mềm, viêm tuyến vú, rắn cắn. Ở Ấn Độ, người ta dùng rễ làm thuốc đắp ngoài trị tê thấp. Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác trong những trường hợp sau:
Chữa viêm họng: ké hoa đào 40g, củ rẻ quạt 10g, kim ngân hoa 20g, bồ công anh 12g, cam thảo dây 10g. Sắc uống ngày 1 thang.
Chữa phong thấp, viêm khớp, đau nhức xương: rễ ké hoa đào 40-60g, sắc uống.
Chữa lỵ: ké hoa đào 30g, lá mơ lông 20g, rau sam 20g, cam thảo dây 10g. Sắc uống ngày 1 thang.
Chữa bạch đới: rễ ké hoa đào 20g, rễ củ gai 20g, bạch đồng nữ 20g, cam thảo dây 10g. Sắc uống.
Chữa viêm thận phù thũng: rễ ké hoa đào 40-60g sắc uống.
Chữa bướu cổ đơn thuần: ké hoa đào 30g, ké đầu ngựa 20g. Sắc uống trong ngày.
Chữa viêm ruột: ké hoa đào 40g, lá ba chẽ 20g. Sắc uống trong ngày. Có thể dùng riêng, toàn cây 40 - 50g, chặt nhỏ, sao vàng, sắc uống.
Chữa tiêu hóa kém: rễ ké hoa đào tươi 60g rửa sạch, giã nát, lọc bỏ bã, uống trong ngày.
Chữa rong kinh, rong huyết: rễ ké hoa đào 40g, mần tưới 20g, chỉ thiên 20g, mã đề 20g. Sắc uống.