Với Hollywood, câu chuyện tình yêu thăng hoa và cái kết day dứt trong A Star is Born (Vì Sao Vụt Sáng) kinh điển không kém gì Casablanca; nhưng điều khác biệt là Casablanca chưa bao giờ được làm lại, còn Star is Born thì đã được Hollywood làm lại 4 lần trong suốt gần một thế kỷ qua. Có lẽ bởi ở Star is Born, khán giả thời đại nào cũng tìm thấy những nét tương đồng hay liên hệ với thời đại họ đang sống, đặc biệt là câu chuyện tình nghệ sĩ và trái tim đầy thương tổn của họ. A Star is Born của Bradley Cooper sở dĩ gây tiếng vang và thành công như thế, là nhờ chạm vào được những giá trị phổ quát của thế giới giải trí ngày hôm nay.
Trong A Star is Born phiên bản mới nhất, ta có thể thấy được những dấu ấn thời đại và một cái nhìn vừa tinh tế vừa sắc sảo vào thế giới giải trí hiện đại đầy khắc nghiệt ở Hollywood, nơi một ngôi sao vừa tỏa sáng cùng lúc với một ngôi sao khác sắp lụi tàn. Điều này thực ra đã được thể hiện phần nào trong các phần phim trước, nhưng chưa bao giờ ta thấy chúng rõ nét đến vậy trong sự liên hệ với thế giới đầy bất an và nhiều thương tổn của những người nghệ sĩ thời nay.
Với A Star is Born bản đầu tiên ra mắt vào năm 1937, với diễn xuất chính của Janet Gaynor và Fredric March, bộ phim tập trung vào giấc mơ chinh phục hào quang của một nữ diễn viên trẻ và sự lụi tàn của một ngôi sao nam nghiện ngập mà những ngày tháng vinh quang đang bị bỏ lại phía sau. Bộ phim phản ánh khá sát sườn giai đoạn chuyển giao từ thời đại phim câm sang phim có tiếng với sự trỗi dậy của nhiều ngôi sao nữ. Để hình dung về giai đoạn này, bộ phim đen trắng từng đoạt giải Oscar The Artist (2011) là một tham chiếu chính xác nhất.
Phiên bản cũ nhất của A Star Is Born năm 1937
Trong hai phần tiếp theo vào năm 1954 và 1976, A Star is Born chuyển hướng sang mô tả thế giới âm nhạc và phần nào đồng bộ với trào lưu âm nhạc của hai giai đoạn đó. Bộ phim năm 1954 với diễn xuất chính của Judy Garland và James Mason là câu chuyện tỏa sáng của một nữ ca sĩ nhạc jazz; còn trong phiên bản năm 1976, với diễn xuất chính của Barbra Streisand và Kris Kristoffesson, bối cảnh của bộ phim được đặt trong thế giới nhạc rock và pop những năm 70 của thế kỷ trước.
James Mason và Judy Garland trong "A Star Is Born" năm 1954
Phiên bản mới nhất của Bradley Cooper có vẻ gần nhất với bộ phim ra mắt năm 1976 dù nó được đánh giá vượt trội hơn về mọi mặt. Trong bộ phim đầu tay ở vị trí đạo diễn, Cooper đã đạo diễn bộ phim theo một phong cách tự nhiên với những sắc màu rực rỡ và quay trở lại với những nhịp điệu âm nhạc trong những năm đầu thập niên 70. Diễn xuất cực kỳ ăn ý giữa Bradley Cooper, một diễn viên nam nhiều kinh nghiệm và từng được đề cử Oscar diễn xuất với Lady Gaga, ngôi sao âm nhạc lần đầu tiên có một vai diễn chính trong điện ảnh thực sự đáng kinh ngạc. Trong một tiếng đầu bộ phim, khi họ phát hiện ra nhau, tìm thấy nhau và cùng thăng hoa trong âm nhạc lẫn tình yêu, họ như mời gọi khán giả cùng nhập cuộc trong chuyến hành trình đầy cảm xúc và đồng thời giúp ta chạm được vào thế giới nội tâm của họ.
Cái cách mà Jack (Bradley Cooper) che dấu sự ngạc nhiên khi lắng nghe Ally (Lady Gaga) hát ca khúc La Vie en Rose bằng giọng thật trong quán bar của giới đồng tính, chuyển giới; cách anh tiếp cận cô, chạm vào mặt cô và muốn được nhìn thấy gương mặt thật không trang điểm, đưa cô đến với không gian âm nhạc quen thuộc của mình, lang thang với nhau giữa đêm, khuyến khích cô viết nhạc và đỉnh điểm là cùng song ca với Ally ca khúc Shallow trên sân khấu; ta thấy được cả một chuỗi thăng hoa cảm xúc của hai tri kỷ, hai trái tim đồng điệu mới tìm thấy nhau.
Ở giai đoạn này, họ vừa phơi bày con người cá nhân, vừa che dấu những thương tổn của quá khứ mà mỗi người phải đối mặt.
Ca khúc Shallow mà họ song ca trên sân khấu dường như phản chiếu hai thế giới nội tâm đầy bất ổn của cả hai.
"Hãy nói cho anh biết/ Em có cảm nhận được hạnh phúc trong thế giới hiện đại này không?
Hay em đang cần điều gì nữa/ Một điều gì đó mà em đang khao khát tìm kiếm?
Anh đang rơi tự do/Vào những lúc đẹp nhất, trái tim anh khao khát một sự thay đổi
Vào những lúc suy kiệt, anh thấy sợ hãi chính mình"
Lời của ca khúc, mà như chính lời giãi bày tâm trạng của Jack trước người phụ nữ anh yêu.
"Hãy nói cho em biết/ Anh có thấy mệt mỏi khi cố gắng lắp đầy khoảng trống ấy
Hay anh đang cần nhiều hơn thế/ Chẳng phải rất khó khăn khi anh vắt kiệt sức mình?"
Ở phía ngược lại, Ally cũng muốn thăm dò những bất ổn trong trái tim của Jack.
Để rồi trong nửa sau của bộ phim, những lời giãi bày của Jack hay sự thăm dò của Ally đã trở thành hiện thực. Ally ngày càng tỏa sáng trong thế giới âm nhạc, trong khi những bất ổn ngày càng nhấn chìm Jack, không cách gì cứu vãn được, ngay cả tình yêu và sự bao dung của Ally. Khi Jack ngã lăn và thậm chí đái dầm trên sân khấu trong lễ trao giải trực tiếp Grammy, điều đó không chỉ hủy hoại danh tiếng của anh mà còn hủy hoại luôn lòng tự trọng cuối cùng của một người nghệ sĩ. Với một người nghệ sĩ lớn, nếu không còn danh tiếng và lòng tự trọng, điều gì sẽ níu giữ họ với cuộc đời này?
Với một người nghệ sĩ lớn, nếu không còn danh tiếng và lòng tự trọng, điều gì sẽ níu giữ họ với cuộc đời này?
A Star is Born là một bộ phim thành công không thể phủ nhận, ở cả khía cạnh thương mại với doanh số phòng vé lẫn những dự báo về một loạt đề cử Oscar ở mùa giải sắp tới – điều rất hiếm với một bộ phim làm lại; nhưng hơn cả thế, bộ phim này còn sớm trở thành một hiện tượng văn hóa đại chúng và phần nào đưa ra một chiếc chìa khóa giúp khán giả mở được cánh cửa để bước vào thế giới đầy thương tổn của những người nghệ sĩ trong thế giới hiện đại ngày hôm nay mà đôi khi chúng ta không thể hiểu nổi.
A Star is Born có tuổi đời gần 100 năm, và ở thời đại nào, ta cũng có thể liên hệ với những câu chuyện trong đời thực lẫn đối chiếu với những bộ phim tiểu sử hay hư cấu về âm nhạc gần như có cùng một mẫu số chung nhưng chưa bao giờ hết bất ngờ.
Will Fetters, một trong ba nhà biên kịch chính của A Star is Born 2018 thừa nhận rằng khi viết kịch bản bộ phim này, anh lấy cảm hứng từ câu chuyện của huyền thoại âm nhạc Kurt Cobain nhiều hơn là những tình tiết trong bản gốc. Tại sao một huyền thoại âm nhạc đang ở trên đỉnh cao sự nghiệp của mình, có một gia đình hạnh phúc như Kurt Cobain lại tự hủy hoại bản thân bằng rượu, ma túy và chọn cái chết để hóa giải cuộc đời của mình? Ta cũng hoàn toàn đặt câu hỏi tương tự với trường hợp của Jackson Maine trong A Star is Born. Liệu những bi kịch trong quá khứ, những bất ổn về tinh thần và thể xác có thể nhấn chìm và giết chết họ một cách đơn giản như thế? Sẽ không ai trả lời câu hỏi này chính xác ngoài chính bản thân họ.
Và không chỉ Kurt Cobain, ta còn kể ra hàng loạt những ngôi sao chết trẻ bằng hành vi tự sát hoặc đột tử. Những thành viên trong "câu lạc bộ 27", như Brian Jones, Jimi Hendrix, Janis Joplin, Jim Morrison trong thập niên 60, 70 hay Amy Winehouse sau này. Thậm chí là hai vụ tự sát chấn động gần đây của DJ Avicii hay đầu bếp, nhà nghiên cứu ẩm thực Anthony Bourdain. Mô típ chung của họ là đều tài năng, thành đạt, nổi tiếng và giàu có – điều mà hàng triệu người khao khát nhưng chỉ vài người chạm tới. Vậy thì điều gì lại khiến họ luôn sống trong dằn vặt, đau khổ, thích tự hành hạ và hủy hoại bản thân và cuối cùng là chọn cái chết hoặc cái chết chọn họ để hóa giải tất cả, để lại cho công chúng một câu hỏi không có lời đáp.
Trailer "A Star Is Born".
A Star is Born phiên bản 2018, không chỉ dừng lại ở một câu chuyện tình đẹp và thăng hoa của giới nghệ sĩ, mà còn là một câu chuyện khó lý giải về những bất ổn và bi kịch của họ mà ở thời đại nào, ta cũng có thể nhìn thấy. Phim hiện đang được chiếu tại các rạp trên toàn quốc.