liền với đời sống ẩm thực của người dân Nam Bộ, nhưng hiện nay đang đứng trước nguy cơ biến mất do khai thác quá mức.
Đó chính là cá duồng, còn được gọi là cá duồng xanh hay cá duồng bay.
Loài cá này phân bố ở các sông lớn tại Nam Bộ như: hệ thống sông Đồng Nai – Sài Gòn, sông Vàm Cỏ Đông – Vàm Cỏ Tây (mùa lũ) và sông Cửu Long. Không chỉ mang giá trị sinh thái, cá duồng bay còn từng được người dân tôn vinh là thực phẩm thượng hạng. Tuy nhiên, hiện nay chúng đang đối diện với nguy cơ suy giảm nghiêm trọng ngoài tự nhiên.
Theo Sách đỏ Việt Nam (1992), cá duồng bay có tên khoa học Cirrhinus microlepis Sauvage, 1878, thuộc họ Cá chép (Cyprinidae), bộ Cá chép (Cypriniformes). Thân cá thon dài, mình dày, phía sau dẹp bên; đầu to nhưng ngắn và rộng. Mõm ngắn, bề mặt có nốt sần, miệng không râu. Vảy thân nhỏ, màu vàng xám đến nâu; bụng trắng nhạt; vây lưng và vây đuôi xám nâu viền đỏ; các vây khác ánh hồng nhẹ. Cá trưởng thành có thể dài tới 65 cm, nặng đến 10 kg.
Tên gọi “cá duồng bay” bắt nguồn từ tập tính đặc biệt: khi bật khỏi mặt nước, dáng bơi của chúng khiến người quan sát có cảm giác như cá đang “bay”. Bề ngoài đôi khi khiến cá duồng bị nhầm với cá mè, nhưng nếu để ý sẽ thấy phần lưng hơi gù, vảy ánh xanh trắng giống cá diếc hoặc cá trôi.
Cá duồng bay là loài ăn tạp, thức ăn chính gồm thực vật phù du, mảnh vụn hữu cơ, giáp xác nhỏ và côn trùng. Chúng sinh sản ở vùng trung – thượng lưu sông, nơi dòng chảy vừa phải. Cá bột sau khi nở sẽ theo nước trôi về kênh rạch, vùng trũng ngập lũ để sinh sống. Loài cá này thường xuất hiện nhiều vào mùa mưa, khi các hồ thủy điện và thủy lợi xả lũ, tạo điều kiện cho đàn cá di chuyển ngược hoặc xuôi dòng.
Cá cá duồng bay (ảnh: Internet).
Tại Việt Nam, cá duồng bay từng phổ biến ở hệ thống sông Đồng Nai – Sài Gòn, Vàm Cỏ Đông – Vàm Cỏ Tây và sông Cửu Long. Trước năm 1975, sản lượng khai thác loài cá này khá lớn. Ngoài Việt Nam, chúng còn phân bố ở Lào, Thái Lan, Campuchia, Myanmar, Philippines và một số nước Nam Á.
Hiện nay, quần thể cá duồng bay đã suy giảm nghiêm trọng. Trong vòng 10 năm qua, số lượng của chúng ở lưu vực sông Mê Kông giảm trên 30%. Nguyên nhân chủ yếu là ô nhiễm nguồn nước do nông – lâm nghiệp, việc xây đập thủy điện chặn đường di cư và đặc biệt là tình trạng khai thác quá mức, kể cả trong mùa sinh sản.
Cá duồng bay đã được đưa vào Sách đỏ Việt Nam từ năm 1992, xếp hạng VU (sẽ nguy cấp) theo tiêu chuẩn A2ade. Các biện pháp bảo vệ được khuyến nghị gồm: cấm đánh bắt trong mùa sinh sản (tháng 5 – 8), quy định kích thước cá khai thác tối thiểu từ 40 cm trở lên, đồng thời đẩy mạnh nghiên cứu sinh sản nhân tạo để giảm áp lực khai thác ngoài tự nhiên.
Việc bảo vệ cá duồng bay không chỉ giúp giữ lại một nguồn lợi thủy sản quý mà còn góp phần duy trì cân bằng sinh thái ở các dòng sông lớn. Các chuyên gia khuyến nghị cần áp dụng đồng bộ nhiều giải pháp: giảm cường độ khai thác, phục hồi sinh cảnh tự nhiên, quản lý việc xả lũ hợp lý và khuyến khích nghiên cứu nuôi thương phẩm.
Cá duồng bay – loài cá từng “bay” trên mặt nước, tạo nên những mùa cá rộ ở miền sông nước – giờ đây đang đứng trước nguy cơ biến mất. Bảo tồn và phục hồi loài cá quý này cũng chính là gìn giữ một phần ký ức văn hóa – sinh thái của vùng hạ lưu Mê Kông và hệ thống sông Đồng Nai.