Trưa nắng, ông già bán vé số đứng đắn đo trước quán cơm. Ngó chừng bụng đã đói cồn cào, ông già nửa ngỏ ý nửa dè chừng:
- "Cô ơi! Cô bán tui dĩa cơm, nhưng tui chỉ có 10 ngàn thôi!".
Không trả lời trả vốn, chị Trinh chạy vội ra đón ông già ngồi vào bàn. "10 ngàn cũng bán, có tiền là có cơm. Chú ngồi chờ xíu, tui đem cơm ra ăn rồi tranh thủ đi bán. Mấy nay trời nắng ác chiến, sao chú không kiếm cái nón đội lỡ bệnh là mệt lắm à!".
Chị Trinh và quán cơm bình dân ở quận 3.
Gọi là quán cho sang, chứ thật ra quán cơm của chị Trinh (46 tuổi) tại đường Trần Quang Diệu, quận 3 Sài Gòn chẳng biển hiệu hay có mặt bằng gì sang trọng, chỉ đơn sơ một vài chiếc bàn ghế nhựa đặt dưới chiếc ô đã ngả màu thời gian bên trong con hẻm nhỏ.
Ngót nghét cũng gần 20 năm từ ngày chị Trinh bắt đầu công việc bán cơm này, khách hàng của chị đa phần là người lao động có thu nhập thấp. Họ là những anh thợ hồ, những chú công nhân hay bác xe ôm, cô vé số... những con người mà cái ăn, cái mặc phải đong đếm từng ngàn.
Ở giữa trung tâm thành phố, tìm được một quán cơm với giá bình dân với người lao động là không dễ.
Khách ở tiệm chị Trinh đa phần là người lao động có thu nhập thấp.
Thế nên cái quán nhỏ đơn sơ của chị Trinh bao năm qua trở thành địa điểm thân quen của biết bao con người khốn khó. Ở khu vực trung tâm thành phố này để tìm được một tiệm cơm với giá bình dân không phải chuyện đơn giản. Kinh doanh thì chỗ nào cũng vậy, có đủ tiền thì vào ăn, không đủ tiền thì mời đi nơi khác. Thế mà ở quán của chị, 5 ngàn, 10 ngàn, hay không có ngàn nào đều được chị tiếp đãi như thượng khách.
Chị đon đả hỏi anh thợ hồ nhiêu đây cơm đủ chưa, chưa đủ thì để chị xới thêm, rồi đồ ăn nhiêu đây vừa chưa hay để chị thêm miếng thịt. Chị cười hì hì với mấy anh thợ áo quần còn lấm lem bùn cát như thể người thân trong nhà. Bán buôn bao nhiêu năm, chị nhớ luôn nết ăn của từng vị khách. "Mấy ông thợ hồ làm cực nên phải cho thêm cơm, đồ ăn nhiều một chút để lỡ chiều đói thì tội nghiệp. Mấy ông sơn tường thì ăn ít hơn. Mấy cô phụ nữ thì cho nhiều rau, ít cơm" - chị liệt kê răm rắp thói quen ăn uống của từng khách.
Đó là chưa kể mấy cô bán vé số phải nuôi con nhỏ ở nhà, chị phải xới nhiều cơm, rồi cho thêm bịch cơm thêm để về mấy mẹ con chia ra ăn. Chị kể: "Em nghĩ coi 3 mẹ con mà ăn có 1 hộp cơm thì sao mà no. Thành ra mẹ phải ăn ít lại để phần cho con, mà đi bán vé số cả ngày ngoài trời mệt lắm chứ bộ, nên lúc nào chị cũng cho thêm cơm để mấy mẹ con no thêm một chút. Kệ đi, mình cũng nghèo nhưng nhiều người còn nghèo hơn mình".
Thu nhập của quán cơm khá bấp bênh, đôi khi chị Trinh cũng lâm vào tình trạng khó khăn.
Nghĩ vậy nên thương, rồi nhiều lúc thấy ai khó khăn quá chị mời cơm luôn khỏi tính tiền. Hay như mỗi lần bán xong mà còn dư cơm canh, chị để mọi người tự vào lấy cơm chan canh mà ăn, không lấy tiền. "Còn cơm còn canh thì để mọi người ăn có mất mát gì đâu, chứ mình đem bỏ cũng mang tội mà em" - chị nói nghe nhẹ như không.
Cũng từng phải bươn chải buôn gánh bán bưng ngoài vỉa hè, góc chợ thế nên chị hiểu những vất vả của người lao động, hiểu rồi thương nên chẳng bao giờ chặt chém hay tính toán so đo với khách. Có lần mấy anh thợ hồ ăn xong rồi đứng dậy đi luôn quên trả tiền mà chị Trinh cũng không để ý, một hồi sau mấy ảnh lật đật chạy lại nói: "Chết! Nãy em quên trả tiền cơm".
Chị cười với tôi: "Đó em thấy hông, quên là người ta tới trả liền hà chứ đâu có lừa lọc nhau chi mấy chục ngàn".
Giờ nghỉ trưa, công nhân, thợ hồ lấm lem bùn đất tranh thủ đến ăn ở quán chị Trinh.
Anh Kiệt và chị Trinh cưới nhau thấm thoắt cũng hơn 20 năm. Đứa con gái đầu nay đã là sinh viên năm cuối Đại học Quốc Gia TP.HCM. Hồi đó anh Kiệt làm việc trong trung tâm nuôi dạy trẻ mồ côi, chiều chiều dẫn tụi nhỏ qua ăn bún bò của chị Trinh, riết rồi thương nhau hồi nào không hay.
Anh Kiệt và chị Trinh cưới nhau đã 20 năm.
Anh chị về với nhau, cùng gầy dựng nên tiệm cơm này. Sáng anh chở chị ra chợ mua nguyên liệu, rồi chạy về nhà chuẩn bị bếp lửa cho chị về nấu. Trưa dù đang đi làm ở đâu anh cũng chạy về phụ chị bán cơm. Anh tâm sự: "Mình buôn bán đâu có lời bao nhiều nên đâu dám thuê người làm, nên buổi trưa anh tranh thủ chạy về phụ chị".
Hằng ngày anh phụ chị bán cơm vào buổi trưa.
Làm vợ, làm chồng nhau hơn 20 năm trời mà ngộ cái là anh chị chẳng bao giờ gọi nhau là anh ơi em ơi, hay bà ơi ông ơi. Họ gọi nhau bằng tên: "Kiệt ơi!", "Trinh ơi!", nghe thật thà mà dễ thương. Khách ghé ăn cơm, anh Kiệt gọi:
- Trinh ơi! Ở đây một dĩa cơm cá hú nghen!
- Trinh ơi! Tính tiền cho khách nè!
- Trinh ơi!...
Anh tranh thủ dọn thêm bàn ghế cho chị.
Vậy đó mà anh Kiệt và chị Trinh đồng cam cộng khổ từ quán cơm nghèo nuôi cô con gái ăn học tới đại học. Chị cười kể: "Con nhỏ học giỏi lắm! Anh chị cũng ráng không để con cái nó giống mình, cực khổ mà không có bạn bè, tối ngày ru rú bán buôn".
Chị luôn cố gắng hết sức để con cái học hành đến nơi đến chốn, để không khổ như ba mẹ.
Chị Trinh không có nhiều bạn bè, nhưng chị có rất nhiều người thân. Đó là những anh thợ hồ, những cô vé số, những chú xe ôm - dẫu họ chỉ là "người thân thời vụ", bởi xong công trình hay chuyển chỗ trọ thì họ lại đi nơi khác, ăn cơm của một tiệm khác. Nhưng có quan trọng gì đâu nhỉ, thương thì 1 ngày cũng thương mà.
Chị có rất nhiều người thân "thời vụ" giữa Sài Gòn.
Chị thẹn thùng tâm sự: "Nói ra sợ em cười chứ chị sinh ra lớn lên ở Sài Gòn, tính ra là người Sài Gòn gốc đó chứ bộ mà có biết Sài Gòn là gì đâu. Nhỏ lớn chưa biết Đầm Sen, Suối Tiên là gì, cái toà nhà bông sen gì mà cao nhất thành phố chị cũng chưa được nhìn thấy. Quê mùa thấy ớn luôn!".
Tôi cười. Nhưng chị Trinh ơi! Sài Gòn đâu phải ở Đầm Sen, Suối Tiên hay toà nhà Bitexco. Sài Gòn ở đây nè, trong con hẻm nhỏ xíu thanh bình này - nơi con người ta đối đãi với nhau bằng cái tình, cái nghĩa.
Sài Gòn là mảnh đất mà từng centimet đều có trái tim biết thổn thức vì người khác. Ở nơi này, tình người làm nên thành phố.