Ung thư phổi được xem là sát thủ thầm lặng khi bệnh diễn tiến âm thầm và nguy cơ tử vong cao. Trong Hội thảo “Tầm soát và điều trị ung thư phổi giai đoạn sớm” tổ chức tại TP.HCM vừa qua, các diễn giả trong và ngoài nước đã trình bày những tiến bộ mới nhất về tầm soát và điều trị ung thư phổi, mở ra cơ hội điều trị thành công cho nhiều bệnh nhân.
Hội thảo do PGS.TS.BS Đỗ Kim Quế – Phó Giám đốc Bệnh viện Thống Nhất, Chủ tịch Hội Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực châu Á, Chủ tịch Hội Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực TP. HCM, Phó Chủ tịch Hội Phẫu thuật Tim mạch và Lồng ngực Việt Nam làm chủ tọa.
Hơn 300 khách tham dự là các bác sĩ tại TP.HCM và các tỉnh lân cận tham dự để nghe các diễn giả uy tín trong và ngoài nước chia sẻ những kinh nghiệm thực tế trong chẩn đoán và điều trị ung thư phổi.
Vì sao điều trị ung thư phổi vẫn là một thách thức?
Mở đầu hội thảo, ThS. BS Lương Ngọc Trung – Trưởng khoa Phẫu thuật Lồng ngực và Mạch máu, Bệnh viện FV cho biết, theo số liệu của GLOBOCAN 2022, tỷ lệ người mắc ung thư phổi đứng thứ 1 (chiếm 12,4%) trong tổng số các loại ung thư, tỷ lệ tử vong cũng ở mức cao nhất, tới 18,7%.
Dù y học đạt được nhiều thành tựu trong điều trị ung thư nói chung song ung thư phổi vẫn là một thách thức khi tỷ lệ sống sau 5 năm của bệnh nhân rất thấp (13-18%), việc điều trị mất nhiều thời gian và tốn kém. Lý do là người bệnh thường phát hiện bệnh ở giai đoạn trễ, khi đã qua giai đoạn 3A thì hầu như không còn cơ hội phẫu thuật. “Trong số bệnh nhân phát hiện ra bệnh chỉ có 25% các trường hợp có thể được chỉ định mổ để điều trị triệt căn. Đây chính là một gánh nặng lớn cho những người làm lâm sàng”, bác sĩ Trung cho hay.
ThS. BS Lương Ngọc Trung cho biết, Bệnh viện đã ứng dụng hầu hết các phương tiện hiện đại trong tầm soát và phát hiện ung thư phổi giai đoạn sớm, như chụp cắt lớp vi tính (CT) liều thấp, MRI, nội soi ống mềm để lấy tế bào, sinh thiết xuyên thành ngực, nội soi phế quản dưới hướng dẫn của siêu âm (EBUS), kỹ thuật siêu âm điều hướng ảo Navigation, theo đó bác sĩ sử dụng Navigation qua đường nội soi, có thể kết hợp với EBUS để có kết quả cao.
Ngoài ra, một kỹ thuật mới là đánh dấu tổn thương bằng chỉ thị màu (ICG) cũng được áp dụng tại FV để phát hiện các tổn thương tại phổi và hệ tiêu hoá.
TS.BS Nguyễn Văn Thọ – Trưởng Bộ môn Lao và bệnh Phổi, Đại học Y Dược TP.HCM cũng đánh giá cao vai trò Nội soi phế quản ống mềm và Nội soi phế quản siêu âm (EBUS) trong chẩn đoán và đánh giá giai đoạn ung thư phổi. Nội soi phế quản ống mềm giúp bác sĩ quan sát đường hô hấp qua một ống soi mềm, thiết bị dạng ống mỏng có gắn camera nhỏ để thu hình ở đầu ống. Thủ thuật này giúp bác sĩ lấy các mẫu dịch nhầy hoặc mô phổi
TS.BS. Nguyễn Văn Thọ cho biết, trên thế giới hiện nay EBUS được xem như “kỹ thuật ưu tiên” trong sinh thiết và chẩn đoán ung thư phổi. Tại Việt Nam rất ít bệnh viện được đầu tư hệ thống này do chi phí cao và cần nhiều thời gian để đào tạo tay nghề cho đội ngũ y bác sĩ.
Vũ khí điều trị ung thư phổi
Tại hội thảo, ThS.BS Su Jang Wen – Chuyên gia Phẫu thuật Lồng ngực và Ung thư phổi, O2 Healthcare Group (Singapore) - đã chia kinh nghiệm xử trí các nốt nhỏ ở phổi, nơi có những tế bào ung thư phát triển âm thầm.
Trước đây, những nốt nhỏ này sẽ thường ít được chú ý. Tuy nhiên, các nghiên cứu gần đây cho thấy các nốt nhỏ có thể là dấu hiệu ung thư phổi giai đoạn sớm. Khi phát hiện ra các nốt nhỏ này, bác sĩ Su khuyên người bệnh nên cân nhắc phương án phẫu thuật.
Theo Bác sĩ Basma M’Barek – Trưởng Trung tâm Điều trị Ung thư Hy Vọng, Bệnh viện FV, phương pháp xạ trị định vị thân ở phổi (SBRT) là một vũ khí điều trị ung thư phổi quan trọng. Khi xạ trị phổi cần quan tâm đến sự dịch chuyển của khối u theo nhịp thở, vì điều này có thể khiến cho việc chiếu tia bị sai lệch. Tại FV, các bác sĩ đã kết hợp thêm kỹ thuật điều phối nhịp thở chủ động, giúp quản lý sự di động của khối bướu.
“Ưu điểm của SBRT so với xạ trị cổ điển là vùng xạ nhỏ, nhắm thẳng vào khối u, hạn chế tổn thương mô phổi, rút ngắn thời gian xạ trị xuống 3-4 lần, thay vì 6-7 lần”, bác sĩ Basma cho hay.
Cũng tại hội thảo, TS.BSCKII Lê Tiến Dũng – Phó Giám Đốc, Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch chia sẻ kinh nghiệm về chẩn đoán và điều trị ung thư phổi không tế bào nhỏ. Theo ông, do có nhiều phương pháp điều trị khác nhau, sử dụng vào từng giai đoạn cụ thể, nên việc các bệnh viện tổ chức được Nhóm chăm sóc đa chuyên khoa (MDT) là rất cần thiết.