Bằng đại học Nhật Bản đã từng "quý như vàng" - Vì sao giờ trở nên mờ nhạt?

Ứng Hà Chi, Theo Đời sống & Pháp luật 17:35 29/09/2025
Chia sẻ

Câu chuyện Nhật Bản cho thấy bằng cấp có thể mất giá trong bối cảnh kinh tế biến động, nhưng điều đó không có nghĩa con đường học vấn khép lại.

Vào cuối thập niên 1980, sinh viên đại học Nhật Bản từng là tầng lớp ưu tú, được hưởng nhiều đặc quyền xã hội. Họ không cần lo lắng về việc tìm việc làm, thậm chí nhiều công ty danh tiếng còn chủ động tuyển dụng ngay trước khi họ tốt nghiệp.

Ở Tokyo, tiền tiêu vặt trung bình của sinh viên mỗi tháng lên tới 50.000 yên (khoảng 8,8 triệu đồng), cộng thêm thu nhập từ công việc bán thời gian, nhiều người có khoản chi tiêu hơn 100.000 yên mỗi tháng (khoảng 17,7 triệu đồng). Với số tiền đó, họ dễ dàng chi trả cho các bữa tiệc sang trọng, mua sắm hàng hiệu, thuê căn hộ cao cấp tại trung tâm thành phố, dành thời gian trải nghiệm ở các quán cà phê tại Shibuya hay sắm những chiếc túi phiên bản giới hạn ở Shinjuku. Trong bối cảnh các công ty tích cực tuyển dụng, bằng đại học được coi là “tấm vé vàng” để bước vào tầng lớp trung lưu với mức lương cao và công việc ổn định.

Bằng đại học Nhật Bản đã từng "quý như vàng" - Vì sao giờ trở nên mờ nhạt?- Ảnh 1.

Khi bong bóng kinh tế Nhật Bản vỡ

Tuy nhiên, tất cả đã thay đổi khi bong bóng kinh tế Nhật Bản chính thức vỡ vào năm 1992. Giá bất động sản lao dốc, thị trường chứng khoán sụt giảm, lợi nhuận doanh nghiệp thu hẹp khiến kế hoạch tuyển dụng bị cắt giảm khẩn cấp. Đúng thời điểm đó, thế hệ “Showa Baby Boom” sinh năm 1973 với khoảng 800.000 sinh viên tốt nghiệp bước vào thị trường lao động, nhưng lại rơi vào cảnh cạnh tranh khốc liệt với những lao động trung niên giàu kinh nghiệm đang thất nghiệp. Mức lương mà họ được nhận thậm chí chỉ ngang với người tốt nghiệp phổ thông, còn cơ hội việc làm chính thức ngày càng khan hiếm.

Chính phủ Nhật Bản khi đó lựa chọn ưu tiên ổn định hệ thống tài chính và các tập đoàn lớn, duy trì thanh khoản cho ngân hàng và thị trường bất động sản thay vì tập trung giải quyết việc làm cho sinh viên mới ra trường. Các công ty Nhật Bản vẫn áp dụng chế độ tuyển dụng trọn đời nên không thể dễ dàng sa thải nhân viên cũ để nhường chỗ cho người mới. Trong bối cảnh nợ xấu ngân hàng cao và chi phí tài chính đè nặng, khó khăn về việc làm của sinh viên tốt nghiệp bị coi là “chi phí có thể kiểm soát được” và không nằm trong danh sách ưu tiên.

Đến năm 1997, khi khủng hoảng tài chính châu Á bùng phát, kinh tế Nhật Bản tiếp tục suy thoái. Từ 1997 đến 2002, chính phủ gần như không có chính sách cụ thể nào nhằm giải quyết việc làm cho sinh viên tốt nghiệp. Hệ quả là vào năm 2003, tỷ lệ việc làm của sinh viên đại học giảm xuống còn 55,1%, trong đó một số ngành khoa học xã hội và nhân văn còn dưới 50%. Nhiều sinh viên rơi vào tình trạng thất nghiệp, thậm chí một số phải tìm đến cái chết do áp lực từ khoản vay sinh viên và chi phí sinh hoạt.

Trước tình trạng này, Nhật Bản đã tiến hành tự do hóa hoàn toàn hệ thống phái cử lao động, cho phép mọi ngành nghề tiếp nhận lao động phi chính thức. Điều này đồng nghĩa với việc nhiều sinh viên đại học không thể có việc làm ổn định, buộc phải chấp nhận công việc hợp đồng hoặc bán thời gian. Thu nhập bấp bênh, an sinh xã hội không được đảm bảo và cơ hội thăng tiến nghề nghiệp gần như bị hạn chế.

Bên cạnh đó, việc dân số già hóa nhanh và tỷ lệ sinh giảm mạnh khiến hệ thống giáo dục cũng chịu tác động. Đến năm 2024, chỉ tiêu tuyển sinh đại học của Nhật Bản đã vượt quá số lượng thí sinh trúng tuyển lần đầu tiên, để lại khoảng trống 10.000 sinh viên. Nhiều gia đình và bạn trẻ bắt đầu đặt câu hỏi về giá trị thực sự của tấm bằng đại học. Thay vì bỏ ra bốn năm cùng hàng trăm nghìn yên học phí, họ cho rằng đi làm sớm để tích lũy kinh nghiệm có thể là lựa chọn thực tế hơn.

Bằng đại học Nhật Bản đã từng "quý như vàng" - Vì sao giờ trở nên mờ nhạt?- Ảnh 2.

Ngày nay, tỷ lệ việc làm của sinh viên đại học Nhật Bản đã phục hồi lên hơn 90%. Tuy nhiên, nguyên nhân không phải vì nhu cầu chất lượng nhân lực cao hơn, mà chủ yếu do dân số suy giảm, nguồn cung lao động co hẹp. Nhiều doanh nghiệp thậm chí hạ tiêu chuẩn tuyển dụng, chấp nhận cả lao động tốt nghiệp trung học phổ thông. Điều này vô tình làm giảm giá trị của bằng cấp, khi tấm bằng đại học không còn bảo đảm cho một công việc ổn định, lương cao như trước.

Câu chuyện Nhật Bản cho thấy bằng cấp có thể mất giá trong bối cảnh kinh tế biến động, nhưng điều đó không có nghĩa con đường học vấn khép lại. Trong kỷ nguyên thông tin và toàn cầu hóa hiện nay, cơ hội việc làm đa dạng hơn, nhưng người trẻ buộc phải chủ động tìm kiếm, rèn kỹ năng thực tiễn và thích ứng linh hoạt với thị trường thay vì trông chờ một tấm bằng đại học mang lại sự ổn định trọn đời.

TIN CÙNG CHUYÊN MỤC
Xem theo ngày