Trong khi sản xuất, chế biến, cơ khí, logistics, y tế, giáo dục mầm non… thiếu lao động trầm trọng, lượng thí sinh chọn học các ngành này lại rất ít. Nghịch lý cung - cầu nhân lực ngày càng lộ rõ, đặt ra thách thức cho hệ thống đào tạo cũng như nền kinh tế.
Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2024 có gần 615.000 thí sinh nhập học đại học, trong đó 25% chọn nhóm ngành kinh doanh và quản lý. Đây là khối có chỉ tiêu lớn, gồm marketing, quản trị kinh doanh, tài chính - ngân hàng, kế toán, kiểm toán… Tiếp đến là máy tính và công nghệ thông tin (IT - 12%), công nghệ kỹ thuật (9%), nhân văn (9%) và sức khỏe (6%); 39% còn lại phân bổ ở 19 nhóm ngành khác.
Cơ cấu này ít biến động so với năm 2022 - 2023, dù tỉ trọng kỹ thuật tăng nhẹ 0,5%. Trong khi đó, thí sinh vẫn đổ dồn vào các trường khối kinh tế và công nghệ: ĐH Kinh tế Quốc dân tăng 25% lượng nguyện vọng, Học viện Ngân hàng tăng 26%, Trường ĐH Khoa học Tự nhiên (ĐHQG TP HCM) tăng gấp đôi so với năm trước.
Ngành công nghệ may và may veston tại Trường CĐ Lý Tự Trọng (TP HCM) được doanh nghiệp đặt hàng tuyển liên tục nhưng số thí sinh đăng ký rất ít
Ở bậc cao đẳng, tình trạng cũng tương tự. TS Đinh Văn Đệ, quyền Hiệu trưởng Trường CĐ Lý Tự Trọng (TP HCM), cho biết nhiều ngành đang rất "khát" nhân lực như công nghệ may veston, công nghệ may, quản lý xây dựng, sửa chữa máy tàu thủy… nhưng vẫn còn nhiều chỉ tiêu trống. Đặc biệt, ngành công nghệ may và may veston được doanh nghiệp đặt hàng tuyển liên tục, cam kết nhận sinh viên sau tốt nghiệp, song số thí sinh đăng ký rất ít. Theo ông Đệ, sự thiếu hứng thú với ngành may mặc khiến nguồn tuyển hụt hẳn so với nhu cầu.
ThS Võ Công Trí, Phó Hiệu trưởng Trường CĐ Kỹ thuật và Du lịch Sài Gòn, cho hay các ngành ô tô, du lịch, IT vẫn hút đông thí sinh, trong khi kế toán và quản trị kinh doanh khó tuyển hơn do tác động của trí tuệ nhân tạo khiến cơ hội việc làm chững lại. Dù vậy, trường vẫn duy trì liên kết với hơn 200 doanh nghiệp để bảo đảm sinh viên có nơi thực tập và cam kết giới thiệu việc làm sau tốt nghiệp.
TS Huỳnh Anh Bình, Giám đốc Trung tâm Hướng nghiệp TP HCM, nhận định hệ thống tuyển sinh đang mất cân đối rõ rệt giữa các nhóm ngành. Nguyên nhân là thay đổi quy chế thi tốt nghiệp THPT cùng xu hướng chọn ngành "theo đám đông", phần nhiều dựa vào bạn bè hoặc mạng xã hội.
Theo TS Bình, sự lệch pha này sẽ làm trầm trọng thêm thất nghiệp, nhất là ở nhóm trẻ dưới 25 tuổi. Các ngành kinh tế - quản trị, IT có nguy cơ bão hòa, trong khi sư phạm, luật, du lịch, khoa học xã hội lại thiếu nhân lực chất lượng cao. Nguy hiểm hơn, những lĩnh vực then chốt như cơ điện tử, tự động hóa, y dược, điều dưỡng hay nông lâm công nghệ cao cũng đang thiếu nguồn cung.
Ông Trần Anh Tuấn, Phó Chủ tịch Hội Giáo dục nghề nghiệp TP HCM, cho rằng nguyên nhân sâu xa là công tác hướng nghiệp ở phổ thông còn hạn chế. Học sinh và phụ huynh chưa được cung cấp dữ liệu tin cậy về nhu cầu nhân lực, lương, triển vọng nghề nghiệp. Vì vậy, nhiều em chọn ngành theo cảm tính, thay vì căn cứ vào nhu cầu thực tiễn. Nếu tình trạng này không sớm thay đổi, khoảng trống nhân lực chất lượng cao ở những ngành thiết yếu sẽ ngày càng lớn.
Theo ông Tuấn, có nhiều lý do khiến thí sinh quay lưng với ngành nghề đang "khát" nhân lực. Trước hết là vấn đề thu nhập và điều kiện làm việc. Một kỹ sư cơ khí mới ra trường, một giáo viên mầm non hay một điều dưỡng viên thường nhận lương thấp, chưa tương xứng với công sức bỏ ra. Trong khi đó, IT hay kinh tế mở ra cơ hội rộng rãi, thu nhập cao hơn, thậm chí có khả năng làm việc xuyên biên giới.
Nhiều ngành nghề lại vất vả, áp lực lớn nhưng đãi ngộ chưa tương xứng. Ngoài ra, hình ảnh xã hội về nghề nghiệp cũng tác động mạnh. Khi các ngành kỹ thuật, sản xuất hay chăm sóc y tế ít được truyền thông tích cực, giới trẻ dễ nghĩ đây là công việc nặng nhọc, ít hấp dẫn. Ngược lại, những ngành "thời thượng" thường được quảng bá rầm rộ, tạo sức hút mạnh.
"Không thể bỏ qua yếu tố hướng nghiệp. Học sinh phổ thông chưa được tiếp cận đầy đủ thông tin về nhu cầu nhân lực và triển vọng nghề nghiệp, dẫn đến lựa chọn cảm tính, thiếu cơ sở thực tiễn" - ông Tuấn nhấn mạnh.