Người được nhắc đến chính là Phan Kính (1715-1761) tự là Dĩ Trực, hiệu Tĩnh Trai, quê làng Vĩnh Gia, xã Lai Thạch, huyện La Sơn (Can Lộc, Hà Tĩnh ngày nay).
Theo sử liệu, hơn 3 tuổi, Phan Kính thuộc nhiều ca dao, tục ngữ, đến 7 tuổi đã biết làm thơ phú.
Năm 1730 có đến 400 sĩ tử trình văn ở Quốc Tử Giám, Phan Kính đỗ đầu. Dù khi ấy mới chỉ 15 tuổi, Phan Kính đã được suy tôn là đứng đầu trong nhóm "Nghệ An ngũ tuyệt" (5 người văn chương tuyệt tác của xứ Nghệ ở Thăng Long).
Sau 5 năm học ở Thăng Long, năm 1735, Phan Kính trở về Nghệ An, mãi đến năm 1743, mới trở lại Thăng Long tham dự kỳ thi Hội với quyết tâm "không thành đạt không về".
Áo Cẩm Bào vua Càn Long tặng Phan Kính. (Ảnh: Tiền phong)
Trong kỳ thi này, vượt qua hơn 3.000 sĩ tử, ông thi đỗ thám hoa. Vì khoa thi không lấy trạng nguyên và bảng nhãn, ông trở thành người đỗ cao nhất.
Sau khi đỗ đạt cao, Phan Kính được vua cho về quê vinh quy bái tổ, nghỉ ngơi ba tháng, thu xếp việc nhà. Tháng 6/1744, ông ra Thăng Long nhậm chức. Ban đầu, ông được vua sắc phong giữ chức Hàn lâm viện đãi chế, chuyên việc cung phụng từ lệnh ở bên vua.
Cuộc đời làm quan, Phan Kính trải qua nhiều chức vụ quan trọng, để lại những dấu ấn sâu sắc như: Giám sinh ở Quốc Tử Giám, Đốc đồng trấn Sơn Tây, Đốc đồng xứ Thanh Hóa, Thư đốc thị Nghệ An, Đốc đồng xứ Tuyên Quang, Kinh lược sứ, Tham mưu nhung vụ đạo Hưng Hóa…
Theo sách Đại Nam nhất thống chí, trong thời gian từ 1759-1760, Phan Kính được triều đình cử đi sứ nhà Thanh (Trung Hoa) để ký kết văn kiện chính thức về biên giới. Vua Càn Long mến phục tài trí của Phan Kính nên gia phong cho ông danh vị Lưỡng quốc Đình nguyên thám hoa. Đồng thời ban tặng áo cẩm bào và hai bức trướng, có ghi hai dòng chữ "Thiên triều đặc tứ Bắc Đẩu dĩ Nam nhất nhân nhi dĩ" (nghĩa là: Về phía Nam sao Bắc Đẩu chỉ có một người mà thôi).
Cũng trong chuyến đi này, do làm việc quá sức, trải qua nhiều gian lao vất vả, bị bệnh nơi biên ải, thám hoa Phan Kính đột ngột qua đời tại nhiệm sở Hưng Hóa ngày 7/7/1761, thọ 47 tuổi, lúc tài năng đang độ chín muồi. Biết tin Phan Kính qua đời, vua Càn Long bày tỏ sự kính phục và tiếc nuối bằng cách cho đóng 18 cỗ quan tài, khâm liệm rồi đưa rước về nước.
Thi thể ông được đưa về kinh đô Thăng Long. Vua Lê Hiển Tông và Minh đô vương Trịnh Doanh cấp lễ vật, tử tuất và tự tay đề bức trướng phúng viếng: Lưỡng đồ văn hữu vũ / Vạn lý hiểm vy di (nghĩa là: Hai đường kiêm văn, võ / Vạn dặm hiểm lại bình).
Sau khi tiến hành các nghi lễ phúng viếng, vua ban sắc truy phong cho ông chức Hữu thị lang Bộ hình, tước Quỳ dương bá, rồi giao cho Bộ Lễ cùng binh lính hộ tống cả 18 cỗ linh cữu Phan Kính về mai táng tại quê nhà. Không ai biết thi hài Phan Kính nằm ở cỗ quan tài nào.
23 năm sau ngày ông mất, vua Lê Hiển Tông tiếp tục phong sắc tôn Phan Kính làm Thành hoàng, cấp tiền bạc, cử thợ giỏi về địa phương xây dựng đền thờ, lăng tẩm ông tại thôn Vĩnh Gia, giao cho ba tổng Lai Thạch, Hòa Lâm, Bình Hồ thuộc huyện La Sơn thờ phụng.