Theo quy định tại khoản 7 Điều 35 Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 và Điều 7 Thông tư 86/2024/TT-BTC, từ ngày 1/7/2025, số định danh cá nhân sẽ được sử dụng thay cho mã số thuế của hộ gia đình, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh, cá nhân có nghĩa vụ thuế.
Ghi nhận của PV, cho thấy, những ngày gần đây, một số cá nhân, hộ kinh doanh bất ngờ thông báo không nhận thanh toán chuyển khoản , thay tài khoản nhận tiền, không áp dụng hình thức COD - tiền mặt được thu khi giao hàng, ủy thác thu tiền cho đơn vị vận chuyển... vì lo ngại bị theo dõi doanh thu thực.
Mạng xã hội chia sẻ một hàng quán treo biển không thu tiền qua chuyển khoản
Trao đổi với PV, luật sư Diệp Năng Bình (Đoàn Luật sư TP HCM) phân tích, truy thu thuế là việc cơ quan thuế yêu cầu người nộp thuế (cá nhân hoặc tổ chức) nộp bổ sung số tiền thuế còn thiếu mà trước đó họ chưa kê khai, kê khai sai, hoặc chưa nộp đúng quy định pháp luật.
Theo luật sư, khi cơ quan thuế phát hiện ra người nộp thuế có hành vi sai sót, như kê khai thiếu doanh thu chịu thuế, chi phí không hợp lý nhằm trốn thuế, gian lận thuế; không kê khai hoặc kê khai sai nghĩa vụ thuế, áp dụng sai mức thuế suất, không đúng chính sách miễn giảm thuế,…sẽ tiến hành việc truy thu thuế.
Nếu có dấu hiệu vi phạm pháp luật, tuỳ vào mức độ hành vi vi phạm, cơ quản quản lý có thể xem xét xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý hình sự.
Chuyển khoản cho nhau có bị truy thu thuế?
Theo luật sư Diệp Năng Bình, hiện nay, có một số góc nhìn, nhận định cho rằng: “các cá nhân, hộ kinh doanh chuyển tiền vào tài khoản cá nhân” có thể là vi phạm pháp luật, vi phạm các quy định về truy thu thuế hoặc trốn thuế.
Từ thực tế nhìn nhận, pháp luật không có quy định cấm viêc cá nhân, hộ kinh doanh chuyển tiền vào tài khoản cá nhân. Đồng thời cũng khó có căn cứ để cho rằng đây là hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật, nếu như không suy xét kỹ càng, cẩn thận.
Cụ thể:
Thứ nhất, việc “có đăng ký kinh doanh hay không đăng ký kinh doanh mà có hoạt động kinh doanh bán hàng, dịch vụ thì vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thuế của hộ kinh doanh” cũng chưa phù hợp quy định pháp luật.
Theo Khoản 1, Điều 3 Thông tư 40/2021/TT-BTC quy định các trường hợp không phải thành lập hộ kinh doanh: “Hộ gia đình sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, làm muối và những người bán hàng rong, quà vặt, buôn chuyến, kinh doanh lưu động, kinh doanh thời vụ, làm dịch vụ có thu nhập thấp không phải đăng ký hộ kinh doanh, loại trừ các ngành nghề kinh doanh có điều kiện...” .
Đồng thời tại khoản 2, 3 Điều 4 quy định về nguyên tắc không phải nộp thuế như sau: “Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh có doanh thu từ hoạt động sản xuất, kinh doanh trong năm dương lịch từ 100 triệu đồng trở xuống hoặc Hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh theo hình thức nhóm cá nhân, hộ gia đình thì mức doanh thu từ 100 triệu đồng/năm trở xuống để xác định cá nhân không phải nộp thuế GTGT”.
Có thể thấy, không phải hoạt động kinh doanh nào cũng cần phải thành lập hộ kinh doanh và không phải hộ kinh doanh nào khi kinh doanh cũng phải có nghĩa vụ nộp thuế đối với nhà nước.
Ngoài ra, cũng cần chú ý rằng, nếu như cá nhân, hộ kinh doanh không đăng ký kinh doanh cũng không phạm “tội không kê khai đăng ký kinh doanh”. Bởi Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 đã bỏ tội danh này. Tuy nhiên, cá nhân, hộ kinh doanh nếu kinh doanh hàng hoá, dịch vụ đặc thù, cần tuân thủ việc thành lập hộ kinh doanh hoặc kê khai đăng ký kinh doanh để đảm bảo cho việc kinh doanh đúng pháp luật.
Thứ hai, pháp luật hiện nay không có quy định bắt buộc người bán - người mua phải thực hiện thanh toán các giao dịch: mua bán, sử dụng dịch vụ phải thực hiện việc thanh toán bằng việc chuyển khoản.
Các bên được quyền lựa chọn bất kỳ một hình thức thanh toán, miễn sao không vi phạm với các quy định của pháp luật, phù hợp theo thông lệ chung về các hoạt động mua bán, kinh doanh thương mại trên toàn cầu. Việc truy thu thuế chỉ khi người bán hàng kê khai sai, gian dối thuế, hoặc có dấu hiệu chiếm đoạt khoản tiền thuế, hoặc sử dụng các giấy tờ hoá đơn để vi phạm các nghĩa vụ về thuế.
Thứ ba, “việc chia doanh thu ra nhiều tài khoản nhận tiền để làm giảm nghĩa vụ thu thuế… để từ đó nhận định rằng tổng doanh thu sẽ được tính trên tổng tất cả các tài khoản của cá nhân đó”, từ đó có thể xem xét đánh thuế dựa trên các giao dịch qua các tài khoản đó. Điều này dường như không phù hợp với nguyên tắc tính thuế và các quy định chung về thuế với mục tiêu là dựa trên khoản doanh thu của cá nhân, hộ kinh doanh.
“Tổng doanh thu” được hiểu là tổng của tất cả doanh số bán hàng trong một khoảng thời gian. Cơ quan nhà nước sẽ phải xác định khoản thu nhập chịu thuế, mức thu nhập tính thuế của cá nhân, hộ kinh doanh dựa trên mức doanh thu sau khi đã trừ đi các khoản vốn liếng, chi phí nhân công, khấu hao máy móc… của họ trong quá trình kinh doanh, và quá trình thực hiện vê khai và nộp thuế.
Cần nhìn nhận rõ, việc thu thuế dựa trên toàn bộ nguồn doanh thu (căn cứ vào các sổ sách, giấy tờ…) trong quá trình kinh doanh của cá nhân, hộ kinh doanh đó chứ không phải dựa trên tổng doanh thu thông qua tổng các tài khoản nhận – chuyển tiền hoặc chia nhỏ tài khoản.
Thứ tư, về nội dung ghi nhận tiền đối với hàng hoá, trong trường hợp có ghi đúng bản chất hay không đúng bản chất về các giao dịch. Việc xác định doanh thu cần dựa dựa trên việc mua bán các sản phẩm, hàng hoá dịch vụ (dựa trên các hoá đơn, chứng từ kê khai nguồn gốc, quá trình mua bán giữa các bên) chứ không phải xác định trên số lần giao dịch hoặc thông tin chuyển tiền để từ đó truy xét, đánh thuế theo các lần giao dịch hoặc dựa trên nội dung câu chữ để tính từng lần thu thuế.
Thứ năm, “doanh thu kê khai không đến từ bán hàng và thu được tiền. Mà bản chất doanh thu kê khai thuế đến từ việc chuyển giao quyền sở hữu, sử dụng hàng hoá cho người mua, không phân biệt là đã thu được tiền hay chưa. Đối với dịch vụ là thời điểm hoàn thành cung ứng dịch vụ, hoặc lúc thu tiền trước.”
Để có thể tính toán nộp thuế cá nhân, hộ kinh doanh cần phải có doanh thu thực tế, tức là doanh thu đấy phải được thể hiện trực tiếp bằng các khoản thu để cơ quan quản lý nhà nước tính thuế dựa trên các khoản doanh thu đó.
Doanh thu kê khai thuế muốn thực hiện được phải dựa trên nguồn thu nhập, doanh thu thực tế hoặc dựa trên ước tính, và bằng các phương pháp tính thuế như: thuế khoán, thuế phát sinh theo từng lần, kê khai theo từng tháng hoặc từng quý… nhằm phù hợp với tình hình kinh doanh thực tế trên từng địa bàn, từng khu vực kinh doanh.
Giả sử nếu cá nhân, hộ kinh doanh đóng thuế khoán (Hộ khoán là những hộ kinh doanh không trọn vẹn đủ 12 tháng trong 01 năm Dương lịch: hộ khoán mới ra kinh doanh, hộ khoán kinh doanh thường xuyên theo thời vụ, hộ khoán ngừng, tạm ngừng kinh doanh và có mức kinh doanh dưới 100 triệu/năm hoặc kinh doanh mà có mức doanh thu thực dựa trên số tháng thực tế kinh doanh dưới 100 triệu/năm) thiếu hoặc chưa đủ, cơ quan thuế sẽ xem xét yêu cầu truy thu thuế, ngược lại nếu đóng vượt mức, cơ quan thuế có thể xem xét trả lại cá nhân, hộ kinh doanh đó hoặc cá nhân, hộ kinh doanh có thể đề nghị cơ quan thuế hoàn trả một phần thuế khoán (nếu có).
“Để có căn cứ xác định là cá nhân, hộ kinh doanh có trốn thuế hay không, không chỉ nhìn nhận dưới góc độ việc sử dụng tài khoản mà cần phải kiểm tra, xem xét lại toàn bộ quá trình kinh doanh và dựa trên sự trung thực, kê khai thuế. Đồng thời, các cơ quan quản lý nhà nước cần phải đưa ra các chính sách về thuế phù hợp với bối cảnh, tình hình kinh tế Việt Nam trong giai đoạn kinh doanh khó khăn hiện nay” luật sư Diệp Năng Bình nêu quan điểm.