Người Nhật có mình tình cảm đặc biệt với trứng, điều này được thể hiện qua cách họ ăn trứng sống với cơm và nước tương, cách họ mày mò nghiên cứu tạo ra đủ loại trứng từ bình thường đến trứng với giá... trên trời. Thậm chí, để trứng không có mùi tanh, họ còn nghiên cứu tạo ra loại trứng hương quýt yuzu.
Từ lâu, trứng đã là một phần quan trọng trong ẩm thực Nhật Bản, và không kể đến trứng sống thì ta cũng có những món trứng truyền thống vô cùng đặc sắc. Đối với nhiều nước khác, trứng rán thì cũng chỉ là trứng đem lên rán, những món này tuy phổ biến toàn thế giới song lại thiếu đi một nét đặc trưng nào đó để người ta nhận dạng. Ví dụ như khi nhắn đến trứng rán hay trứng luộc, chẳng ai dám nói rằng nó thuộc về/hay bắt nguồn từ một nền ẩm thực nào đó, bởi nó mang tính phổ biến và quá "chung chung". Thế nhưng với những món trứng sau đây, cũng có cách chế biến là rán, hấp, luộc bình thường nhưng khi nhìn đến thì 100% ai cũng biết rằng nó là đặc trưng của ẩm thực Nhật.
Rõ ràng, trong mắt một số người thì "trứng" chỉ các món trứng trên thế giới và "rán" chỉ các món làm bằng phương pháp rán bằng dầu. Tamagoyaki cũng có ý nghĩa tương tự với tamago là "trứng" và yaki là "cách làm chín bằng nhiệt (dịch thô)". Tuy nhiên đã từ lâu, tamagoyaki đã thoát khỏi ý nghĩa cơ bản của mặt chữ. Khi nhắc đến tamagoyaki, hẳn ai cũng nghĩ ngay đến món trứng cuộn Nhật Bản trứ danh, chứ không chỉ đơn thuần là món trứng rán nữa.
Tamagoyaki là món trứng Nhật Bản phổ biến được làm bằng cách đánh trứng với gia vị và một số nguyên liệu, sau đó được rán trong chảo hình chữ nhật. Tamagoyaki được rán công phu theo từng lớp mỏng, lớp này chín sẽ được cuộn lại rồi rán tiếp lớp khác. Tamagoyaki có vị ngọt, mềm và thanh rất đặc trưng, có thể ăn kèm với cơm, làm topping sushi (tamago nigiri)...
Chawanmushi là món trứng hấp nổi tiếng Nhật Bản, thường được ăn như một món khai vị. Trong tên của chawanmushi không có chữ "trứng", nó có nghĩa là "món hấp trong tách trà", bởi chawanmushi thường được đựng bằng các loại cốc/chén có hình dáng giống cốc trà kiểu Nhật.
Chawanmushi có kết cấu mềm mịn, một số người có thể so sánh nó như bánh pudding vậy, chỉ khác là nó được ăn như một món mặn. Chawanmushi có thành phần sữa, trứng, hạt bạch quả, nước tương, mirin và dashi, thường ăn kèm với chả cá kamaboko, trứng cá hồi, hành, tôm...
Ajitsuke tamago, hay còn được biết đến với cái tên "ramen egg" - trứng để ăn mì ramen. Nếu bạn đi ăn mì ramen nhiều lần và thường thấy trong bát mì gần như sẽ luôn luôn nó nửa quả trứng lòng đào với vỏ ngoài hơi nhiễm màu nâu thì đó chính là ajitsuke tamago đấy. Món trứng này vừa có vị ngọt vừa đậm đà và là một nguồn hương vị umami dồi dào được người Nhật yêu thích. Người ta làm ajitsuke tamago bằng cách luộc trứng lòng đào, sau đó ngâm nó với hỗn hợp nước tương và gia vị để ngấm vào bên trong ít nhất là 24 tiếng đồng hồ.
Người Nhật có hai trường phái ẩm thực là Washoku (ẩm thực truyền thống) và Yoshoku (ẩm thực mang nét phương Tây). Yoshoku trong thực tế không phải là món ăn phương Tây mà là các món ăn thuần Nhật, được người Nhật sáng tạo và thêm thắt dựa trên những cái sẵn có của ẩm thực phương Tây. Yoshoku là một phần quan trọng trong ẩm thực Nhật chẳng khác gì với Washoku cả, và cũng bao gồm những món đặc sản không kém nổi hơn ẩm thực truyền thống chút nào. Điển hình trong số đó có lẽ là món omurice - cơm trứng. "Omu" trong Omurice được lấy từ "Omelette" - món trứng rán phương Tây.
Tuy nhiên, cách chế biến món omurice lại không chỉ đơn thuần là omelette phủ lên cơm, mà mang theo những biến tấu rất riêng. Một dạng phổ biến nhất của omurice ấy là trứng rán mềm và mỏng như một tấm chăn, sau đó được khéo léo dùng để bọc gọn phần cơm lại rồi phủ sốt tương cà lên trên. Omurice là một món ăn vô cùng phổ biến ở Nhật Bản, từng xuất hiện vô số lần trong truyện tranh, phim ảnh...