Ngày 11/4, TAND TP.HCM tuyên án các bị cáo trong vụ án xảy ra tại Tập đoàn Vạn Thịnh Phát, Ngân hàng SCB và các tổ chức có liên quan.
Theo HĐXX, tại phiên tòa, các bị cáo dù có nhiều nhận thức khác nhau về hành vi phạm tội nhưng đều thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng quy kết. Ngoài ra, lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp người làm chứng, người liên quan và các chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.
Từ đó, đủ cơ sở xác định Trương Mỹ Lan là chủ của hệ sinh thái Tập đoàn Vạn Thịnh Phát (gọi tắt là Tập đoàn Vạn Thịnh Phát).
Bị cáo Trương Mỹ Lan tại phiên toà. (Ảnh: Hoàng Thọ)
Đồng thời, căn cứ tài liệu và lời khai của các bị cáo khác tại phiên tòa, thể hiện bị cáo Lan là người sở hữu thực sự và chi phối hơn 91,5% cổ phần SCB, là người thực tế có quyền lực chỉ đạo, điều hành tuyệt đối mọi hoạt động của SCB; tuyển chọn, bố trí nhân sự chủ chốt tại SCB.
Theo HĐXX, trước khi hợp nhất Ngân hàng SCB, Trương Mỹ Lan đã thu mua cổ phần của ba ngân hàng: Ngân hàng SCB, Ngân hàng Việt Nam Tín Nghĩa và Ngân hàng Đệ Nhất. Khi Ngân hàng Nhà nước cho phép hợp nhất, bị cáo Lan đã lợi dụng chính sách tái cơ cấu lại ngân hàng đã thâu tóm số lượng lớn cổ phần của ngân hàng SCB sau hợp nhất.
Tính đến tháng 10/2022, bị cáo Lan nắm giữ khoảng 91,5% cổ phần Ngân hàng SCB. Do đó HĐXX không chấp nhận lời bào chữa của bị cáo Lan và các luật sư về việc bị cáo Lan thực tế chỉ có 15% cổ phần, bao gồm của bị cáo và 2 người con gái.
HĐXX cũng cho rằng, quá trình điều tra, những người đứng tên trên 75% cổ phần tại SCB đều thừa nhận đứng tên dùm Trương Mỹ Lan.
Bị cáo Trương Mỹ Lan cho rằng chỉ đưa tài sản vào cho Ngân hàng SCB để phục vụ tái cơ cấu, cáo trạng quy kết bà sở hữu 91,5% cổ phần ngân hàng SCB là không đúng mà bà chỉ sở hữu gần 5% cổ phần.
Bà Lan khai chỉ huy động người thân, bạn bè, nhà đầu tư tham gia tái cơ cấu là theo động viên của một số cán bộ Ngân hàng Nhà nước. Bà Trương Mỹ Lan cũng cho rằng Ngân hàng SCB hoạt động theo quy định pháp luật, bản thân bà không đưa người thân tín vào các vị trí quan trọng tại ngân hàng.
Cũng theo HĐXX, SCB là ngân hàng thương mại cổ phần, theo quy định của luật doanh nghiệp và luật các tổ chức tín dụng thì việc quyết định các vấn đề của ngân hàng khi được trên 65% cổ đông chấp thuận thông qua đại hội đồng cổ đông.
Đối với 5 cổ đông nước ngoài, quá trình điều tra bà Lan khai đã nhận chuyển nhượng cổ phần từ 5 cổ đông này. Tại phiên tòa, bà Lan thay đổi lời khai nhưng thực tế các cổ đông nước ngoài từ lâu đã không tham gia đại hội đồng cổ đông nên lời bào chữa của các luật sư cho rằng bà Lan và gia đình chỉ nắm giữ khoảng 15% cổ phần SCB là không có cơ sở để chấp nhận.
Vì vậy, việc chiếm trên 91,5% cổ phần tại SCB nên Trương Mỹ Lan thực tế đã chi phối và thực chất điều hành toàn bộ hoạt động tại SCB. Do đó bị cáo Lan là chủ thể của tội Tham ô tài sản, từ đó không chấp nhận quan điểm bào chữa của các luật sư cho rằng bị cáo Lan không cấu thành tội Tham ô tài sản.
Lợi dụng vai trò là cổ đông lớn, quyền lực, nắm giữ trên thực tế số lượng cổ phần gần tuyệt đối của Ngân hàng SCB, bà Trương Mỹ Lan đã truyền đạt ý chí cho các bị cáo Đinh Văn Thành, Bùi Anh Dũng, Võ Tấn Hoàng Văn, Tạ Chiêu Trung, Trương Khánh Hoàng, Trần Thị Mỹ Dung thực hiện việc rút tiền từ SCB nhằm chiếm đoạt số tiền lớn của ngân hàng để sử dung vào mục đích cá nhân.
Trong 10 năm, từ 2012 - 2022, SCB đã giải ngân cho nhóm bị cáo Trương Mỹ Lan hơn 2.500 khoản vay với tổng số tiền hơn 1 triệu tỷ đồng, chiếm 93% số tiền cho vay của ngân hàng.
Đến năm 2022, nhóm bị cáo Lan còn 1.284 khoản vay, dư nợ tại SCB hơn 677.000 tỷ đồng (gần 484.000 tỷ đồng dư nợ gốc, hơn 193.000 tỷ tiền lãi), nằm trong nhóm không có khả năng thu hồi.
Bị cáo Chu Lập Cơ (chồng bị cáo Trương Mỹ Lan)
Theo HĐXX, các bị cáo này thực hiện hành vi phạm tội trong một thời gian dài, trong khi Bộ luật Hình sự có sự thay đổi cơ bản về đường lối xử lý tại thời điểm trước và sau ngày 1/1/2018, chưa xử lý tội tham ô tài sản đối với doanh nghiệp ngoài nhà nước, nên Viện KSND đã truy tố bị cáo ở 2 tội danh ở 2 giai đoạn trước và sau ngày 1/1/2018 là phù hợp.
Đây cũng là lập luận để HĐXX không chấp nhận quan điểm bào chữa của luật sư cho rằng, việc xử lý 2 tội danh đối với bị cáo Lan là bất lợi cho bị cáo.
Cụ thể, hành vi của Trương Mỹ Lan trong giai đoạn từ ngày 1/1/2012 - 31/12/2017 phạm tội Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng theo khoản 3 Điều 179 Bộ luật hình sự năm 1999.
Bà Lan đã chỉ đạo tạo lập hồ sơ vay vốn khống, hợp thức cho 304 khách hàng vay 368 khoản, còn dư nợ tổng số tiền hơn 132.000 tỷ đồng. Áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo nên xác định hành vi phạm tội của Trương Mỹ Lan đã gây thiệt hại cho SCB hơn 64.600 tỷ đồng, sau khi trừ giá trị tài sản đảm bảo của các khoản vay trên 67.600 tỷ đồng.
Trong giai đoạn từ 1/1/2018 - 7/10/2022, Trương Mỹ Lan đã chỉ đạo tạo lập khống 916 hồ sơ vay vốn để rút và chiếm đoạt tiền của SCB. Đến ngày 17/10/2023, các khoản vay này còn dư nợ gốc hơn 415.600 tỷ, dư nợ lãi hơn 129.300 tỷ đồng.
Trong giai đoạn này, bị cáo Trương Mỹ Lan và đồng phạm liên quan phạm tội Tham ô tài sản theo quy định tại điểm a, b khoản 4 Điều 353 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Áp dụng nguyên tắc có lợi cho bị cáo Lan, sau khi trừ đi giá trị tài sản đảm bảo cho các khoản vay xác định Trương Mỹ Lan đã chiếm đoạt hơn 304.000 tỷ đồng dư nợ gốc, và gây thiệt hại hơn 129.000 tỷ đồng là lãi phát sinh từ số tiền gốc chiếm đoạt nêu trên.
Đối với 5 bị cáo đang bị truy nã và xét xử vắng mặt, tòa án đã tống đạt các quyết định tố tụng hợp pháp và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng nhưng các bị cáo vẫn vắng mặt tại tòa. Bên cạnh đó, HĐXX cũng đã đảm bảo quyền của các bị cáo này khi đã chỉ định luật sư tham gia bào chữa tại tòa cho các bị cáo này.