Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh, hai tên tuổi nổi bật trong văn học Việt Nam, không chỉ được biết đến qua những tác phẩm xuất sắc mà còn bởi một tình yêu lãng mạn. Câu chuyện tình của họ đã trở thành biểu tượng cho sự gắn kết, yêu thương trong cuộc sống và văn học.
Trong những năm tháng Xuân Quỳnh công tác miền Nam vào năm 1976, hai người thường xuyên trao đổi thư từ. Những bức thư này không chỉ là phương tiện kết nối mà còn là nơi họ chia sẻ cảm xúc, hy vọng và ước mơ. Lưu Quang Vũ trong những lá thư không chỉ kể về công việc, cuộc sống hàng ngày mà còn nhắc đến niềm tự hào lớn nhất của họ - cậu con trai Mí. Mí, một tài năng trẻ, là sự kết nối giữa hai trái tim yêu nhau. Những bức thư ấy chính là nguồn cảm hứng cho nhiều tác phẩm văn học nổi tiếng sau này.
Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh nổi tiếng với một tình yêu lãng mạn.
Định mệnh nghiệt ngã đã cướp đi ba sinh mạng của họ vào ngày 29/8/1988 trong một tai nạn giao thông. Sự ra đi đột ngột của Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh và Mí để lại một khoảng trống lớn trong nền văn học và trong lòng người hâm mộ. Tuy nhiên, tình yêu của họ vẫn sống mãi qua những trang thơ, vở kịch và những bức thư tình, minh chứng cho một tình yêu vĩnh cửu.
Câu chuyện tình của họ, dù kết thúc trong bi thương, nhưng mãi mãi là di sản văn học, là nguồn cảm hứng cho thế hệ sau. Tình yêu giữa Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh là một minh chứng sống động cho sức mạnh của tình yêu và sự kết nối bền chặt giữa hai tâm hồn đồng điệu.
Bức thư mà Lưu Quang Vũ gửi cho vợ mình ngày 5/6/1976
"Quỳnh thương yêu,
Em gắng đi về bằng máy bay cho khoẻ, không mua gì cũng được. Về với anh và con, về với nhà ta đi thôi. Về với phố Huế chật hẹp, với nhà trẻ nơi ta đón Mí, với quán cà phê Nguyễn Công Trứ, nơi ta uống cà phê 2 hào buổi sáng với những gã giáo viên còm, những người công nhân lam lũ và những tay thợ làm đạo cụ sân khấu, về với những con đường chúng ta vẫn đi, những công việc, với cái thành phố nghèo, nơi người ta sống rất khổ mà vẫn luôn tìm cách để sống cho thanh thản trong nỗi khổ ấy, sống thanh thản và yên tĩnh.
Những ngày này nhớ và thương Quỳnh lắm, không nên bực bội về Sài Gòn và người Sài Gòn làm gì. Mùa đông này, về với anh, đi bên anh, nằm bên anh trong căn phòng đầy tranh của chúng ta. Và với Mí tuyệt vời của chúng ta. Và chúng ta sẽ viết chứ, sợ gì em nhỉ ?
Nếu chúng ta là kẻ không có tài chí lắm, không viết được điều gì to tát, thì cũng sẽ viết được những trang sách về những năm tháng ta sống, về những cay đắng và những niềm yêu thương đơn giản của con người.
Hôn em rất lâu".
Ngày 9/6/1978
"Quỳnh nhớ thương
Em đi đã được một tuần. Nhớ em và buồn lắm. Mấy bố con ở nhà vẫn bình thường. Mẹ đi vắng. Mí cứ quấn bố, tối không chịu xuống bà. Hôm nào cũng bảo: bố với em đi đón mẹ đi. Mí ăn được, ngủ được, vẽ thêm nhiều tranh mới. Tuấn Anh xuống bác, bà Tuấn Anh vẫn ở đây, ngày nào Tuấn Anh cũng về đi bơi, xong ăn cơm chiều với bà hoặc với anh rồi lại xuống bác. Kít thì vẫn về luôn.
Anh đang viết gấp cho xong tập sách diễn viên, cũng mới viết được mấy bài thơ và định viết truyện ngắn về Campuchia. Nhuận bút tập thơ của em mẹ bảo có lẽ phải hàng tháng mới có tiền. Mấy bố con cũng túng, nhưng cũng 'cầm cự' được vì có cá khô, tôm khô rồi.
Anh làm mọi việc nhà xong, ru con yên thì đã 11 giờ lúc đó mới làm việc. Mới biết em ở nhà làm việc nhà vất vả thật.
Những gì em dặn về nhà cửa, về con anh đều nhớ và lo chu toàn. Chỉ có nhớ em và mong ngày em về. Có lẽ cũng phải 1 tháng nữa em mới về nhỉ.
Em cũng chẳng nên mất thời giờ quá về những việc dự định sẽ mua sắm bên đó, để sức mà đi xem, đi chơi. Đời sống vợ chồng con cái mình rồi cũng đã ổn dần, miễn là mình viết được và in được.
Nhiều việc muốn làm quá, anh rất sốt ruột, sức khỏe thì có hạn. Anh cũng muốn làm xong mọi 'com măng' để thư thả mà làm thơ. Anh muốn viết khác đi, hay hơn và chắc rằng sẽ viết được.
Mới đó mà đã giữa năm. Em về 2 vợ chồng sẽ đi đâu với nhau 1 chuyến. Em đi Liên Xô kỳ này, anh cũng rất mừng, sống với nhau, anh chỉ mong em sung sướng và làm việc được. Anh thì mãi mãi vẫn thế: vẫn là anh của em với tất cả những nhược điểm và ưu điểm mà anh có, nhưng sẽ mãi mãi yêu thương em, hơn cả những ngày qua cộng lại.
Mí ngoan và tội lắm, rất khôn. Hôm qua đang chơi cái gì đó, mắng Kít: 'Chỉ chuyên phá hoại thôi!'. Mí bắt anh đọc bài 'thẩm chừi' anh không thuộc, Mí khóc, bảo anh là: 'Bố không thuộc mà lại để mẹ đi Liên Xô mất. Bố không thuộc thì bố đi Liên Xô để mẹ ở nhà đọc với em chứ!'.
Hôm qua Mí vẽ cái tranh gọi tên là: 'Mí đứng dưới ba cửa sổ chờ mẹ!' anh gửi cho em đây.
Hôn em. Nhớ em nhiều. Em ở bên đó xứ sở đẹp đẽ, giàu có, có nhớ đến gian buồng và cái sạp của bố con tôi không?
Anh của em".
Ngày 16/7/1978
"Anh nhớ thương ơi,
Anh đi, hôm nay là đúng một tuần. Em ở nhà đếm từng ngày, từng giờ một. Em vừa mệt vừa buồn lúc nào cũng phấp phỏng, có cảm giác 'không hiểu em có thực đã được sống với anh không? Có thật chúng ta đã sống với nhau được 5 năm rồi chăng?'. Em càng yêu anh em càng phấp phỏng, lo sẽ không được sống với anh được lâu dài. Anh đi vắng, em ở nhà nhọc nhằn. Em vẫn bị đau bụng chưa khỏi hẳn. Xách nước lên gác ba một mình. Đôi khi em thấy em làm mọi việc đều vô nghĩa. Khi em xách nước, em chợt tự hỏi 'Xách nước thế có cần không, có đúng không?'. Khi em ngủ dậy, em tự hỏi 'Mình ngủ thế để làm gì?'.
Không có anh, em thấy em sinh sống như một sinh vật. Em làm mọi việc, chịu đựng mọi thứ đều cảm thấy nhọc nhằn gấp hai lần. Nếu không có anh, em thật là vô nghĩa. Sự lao động của em cũng ví như người tù hằng ngày gánh nước đổ lên đống cát. Em thấy kinh hoàng vô cùng - nếu như không có anh. Em đi về không có mục đích. Em không sang 51 Trần Hưng Đạo làm gì. Mỗi trưa về nhà, em bước lên bậc cầu thang thấy nặng nề và vô nghĩa. Em biết rằng em về cũng không có anh ở nhà không hiểu sao em vẫn về. Về để ăn bát cơm nguội một mình, để giặt chậu quần áo cho các con... Bao giờ thì anh về hở anh?".
Ngày 10/1985
"Anh nhớ thương,
Có thể anh không mong thư em, em vẫn viết cho anh. Vì trước tiên là nhu cầu của em, em muốn được trò chuyện với anh.
Anh mới đi có hai ngày mà em buồn quá. Con và em lại ốm. Hôm nay con đã ăn được tí cơm, em đã đỡ ho. Trời nóng, nhọc mệt nhiều. Chỉ muốn ở bên anh cho đỡ khổ.
Cuộc sống ngắn ngủi, con người chỉ đi qua cuộc đời như một vệt sáng rồi biến mất, vĩnh viễn. Sống với nhau mười hai năm mà ngắn quá dù có vài chục năm nữa ở bên nhau cũng chẳng là dài. Em và anh ngày càng già đi, càng buồn nhiều khi trông thấy những người thân mình ra đi. Em mong và sẽ cố gắng sao cho những năm sống của chúng ta vui và đỡ nhọc nhằn hơn. Em thương anh nhiều lắm. Anh vất vả chẳng có phút nghỉ ngơi. Làm sao mà đỡ đần sự nhọc nhằn được cho anh!
Nhớ giữ gìn sức khỏe và tình yêu của anh dành cho em và cho các con. Đừng ở lâu Sài Gòn. Em và các con mong anh lắm.
Em đây".
Gia đình nhỏ của Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh.
Lưu Quang Vũ (1948-1988) là một trong những tên tuổi lớn của văn học Việt Nam hiện đại, được biết đến chủ yếu qua các tác phẩm kịch và thơ. Phong cách sáng tác của ông đậm chất triết lý nhân văn, pha trộn giữa hiện thực sinh động và những khát khao lý tưởng. Các vở kịch của Lưu Quang Vũ nổi bật với những nhân vật có chiều sâu tâm lý, phản ánh những mâu thuẫn xã hội và đấu tranh cá nhân trong bối cảnh đổi mới. Trong khi đó, thơ Lưu Quang Vũ mang đậm dấu ấn của sự lãng mạn và sâu sắc về mặt cảm xúc, thể hiện cái nhìn tinh tế về cuộc sống và tình yêu.
Những tác phẩm tiêu biểu của ông như Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt, Mùa Hè Chiều Thẳng Đứng, Thư Gửi Các Cô Gái... đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc và khán giả. Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt là vở kịch nổi bật, khám phá những câu hỏi về bản chất con người, sự đối diện với cái chết và mối quan hệ giữa thể xác và linh hồn. Theo Hội Văn học Nghệ thuật, Lưu Quang Vũ là một trong những tác giả tiên phong trong việc đưa những vấn đề xã hội gai góc vào trong văn học, tạo ra những tác phẩm có giá trị nghệ thuật và tư tưởng sâu sắc.
Nhà thơ Lưu Quang Vũ
Xuân Quỳnh (1942-1988) là một trong những nữ thi sĩ nổi bật của văn học Việt Nam hiện đại, được biết đến với những bài thơ tình yêu sâu lắng và chân thành. Phong cách thơ của Xuân Quỳnh mang đậm nét lãng mạn, tinh tế nhưng cũng không thiếu phần hiện thực và sâu sắc. Những tác phẩm của bà thường thể hiện tình yêu, khát vọng hạnh phúc và những đau thương trong cuộc sống, đặc biệt là tình yêu đôi lứa. Thơ Xuân Quỳnh nổi bật với cảm xúc chân thật, dễ tiếp cận và luôn gợi mở những suy tư sâu sắc về cuộc sống và con người.
Những tác phẩm tiêu biểu của Xuân Quỳnh như Sóng, Thuyền Và Biển, Tiếng Gà Trưa... đã đi vào lòng độc giả và trở thành những bài thơ kinh điển trong nền văn học Việt Nam. Trong đó, Sóng là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất, thể hiện sự khát khao yêu đương mãnh liệt và đầy thi vị, đồng thời cũng phản ánh một phần tâm hồn nhạy cảm, khát khao tự do và sự mãnh liệt của người phụ nữ trong tình yêu.
Nhà thơ Xuân Quỳnh
Tổng hợp