Việc bùng nổ các ứng dụng hẹn hò vào thế kỷ 21 đã góp phần tạo ra một thị trường có giá trị tương đương 9,05 tỷ USD vào năm 2020 và tương lai hứa hẹn còn phát triển gấp nhiều lần nữa.
Ngày nay, chúng ta có đủ mọi loại ứng dụng hẹn hò cho từng đối tượng và mục đích. Dù mọi người có tranh cãi thế nào về tác động tích cực hay tiêu cực của nó, không thể phủ nhận những ứng dụng này đã góp phần cách mạng hóa cách mà con người giao tiếp, tìm hiểu hay bước vào mối quan hệ với nhau.
Tuy nhiên, không chỉ đến thế kỷ này mà ý tưởng tương tự mới được hiện thực hóa. Trong suốt lịch sử phát triển của con người, hẹn hò đã luôn là một công việc đầy thú vị nhưng cũng rất thách thức.
Là những cá nhân xuất chúng của xã hội, có lẽ không khó hiểu khi các sinh viên Harvard đã nhận ra sự thật này và biết rằng họ có thể ứng dụng tin học nhằm đơn giản hóa việc tìm kiếm những tâm hồn đồng điệu.
Năm 1965, hai sinh viên Harvard Vaughan Morrill và Jeff C. Tarr nảy ra một ý tưởng độc đáo trong buổi thảo luận đêm khuya. Ý tưởng đó là: sử dụng máy tính để giúp mọi người hẹn hò với nhau.
Vào thời điểm đó, sinh viên nữ vẫn chưa được phép tiếp cận một số không gian trong trường như thư viện Lamont của Harvard. Những bữa tiệc "mixer" (khi hội nam sinh và nữ sinh tổ chức tiệc chung để giao lưu) là một trong những cơ hội hiếm hoi để tìm kiếm bạn khác giới.
Một buổi khiêu vũ tại Đại học Arlington State
Tuy vậy, những bữa tiệc mixer này có thể cứng nhắc và gò bó. Chưa kể, việc được tổ chức ở những địa điểm xa ký túc xá càng khiến động lực tham gia của họ giảm sút.
Xuất phát từ những vấn đề này, Morrill và Tarr đã nảy ra ý dựa vào vi tính để tìm ra giải pháp. Thực tế mà nói, Joan Ball mới là người đầu tiên khởi xướng sáng kiến này với Dịch vụ Hẹn hò qua máy tính St. James ở Anh. Nhưng vào thời điểm khái niệm Internet còn chưa manh nha, đây vẫn là một phát kiến độc đáo ở bờ bên kia Đại Tây Dương.
Operation Match (tạm dịch: "Chiến dịch tương hợp" - nghe rất quen phải không?) được chọn làm tên của dự án đang dần thành hình. 2 thành viên mới được bổ sung là David L. Crump - sinh viên ngành hóa, bạn cùng phòng của Tarr, và Douglas H. Ginsburg - một người bỏ ngang Đại học Cornell. Sau đó họ cùng ngồi xuống bàn bạc và thảo ra một bảng câu hỏi để thu thập thông tin về người dùng tiềm năng.
David L. Crump nói về cách họ thiết kế bảng câu hỏi: "Những thứ người ta biết vào lúc đó là sự đối lập thì không hấp dẫn, tương đồng về quan điểm và sự thu hút ngoại hình như mong đợi thì có - chúng tôi hiểu điều đó cả. Tuy nhiên, sự hấp dẫn (giới tính) là một môn khoa học bất toàn. (Vì vậy) bảng câu hỏi mà chúng tôi dựng nên vừa khoa học, vừa vui nhộn để người dùng điền vào".
Bìa bảng khảo sát Operation Match năm 1966
Trong bảng khảo sát, các khách hàng của "startup" này trả lời 75 câu hỏi về bản thân và viết 75 câu trả lời tương ứng mà họ hình dung người trong mộng có thể sử dụng. Những kẻ độc thân tràn đầy hy vọng sau đó gửi bảng câu hỏi đã hoàn thành kèm mức phí 3 USD đến Cambridge, Massachusetts.
Khi những bảng câu hỏi được gửi đến Operation Match, nhân viên sẽ "biến hóa" các câu trả lời thành thẻ có lỗ bấm. Sau đó, họ đưa những tấm thẻ này vào một chiếc máy tính IBM để xử lý dữ liệu. Chiếc máy với kích cỡ của một căn phòng sau đó in ra kết quả phân tích qua một máy in lớn.
Một chiếc máy sử dụng thẻ đục lỗ của IBM
Sau vài tuần, người dùng sẽ nhận được một bức thư của những người tương hợp hàng đầu và số điện thoại của họ. Các câu hỏi trong bảng khảo sát có thể chỉ đơn giản là điểm thi SAT hoặc sở thích cá nhân. Trong buổi hẹn, nó trở thành chủ đề để bắt đầu câu chuyện và khiến không khí gặp gỡ trở nên rất vô tư.
Ban đầu, Operation Match thực hiện quảng cáo qua các tờ báo địa phương. Rất nhanh sau đó, một đối thủ xuất hiện nhưng nhanh chóng bị "chơi chiêu". Tháng 9 năm 1965, nhà sáng lập của công ty đối thủ này đi phân phát bảng khảo sát gần Nhà Winthrop, ký túc xá Harvard. Biết được sự việc, Operation Match báo cho an ninh học xá "tống cổ" anh ta ra khỏi khu vực.
Thực tế là Operation Match đã kịp phát triển tập người dùng đông đảo hơn nhiều so với các đối thủ cạnh tranh. Qua thời gian, dịch vụ này phổ biến đến tận những ký túc xá ở California - bờ kia nước Mỹ. Họ cũng xuất hiện trên các tạp chí lớn, radio và TV.
Quảng cáo thành công giúp công ty mau chóng đạt 100.000 đơn đăng ký. Hẹn hò với sự trợ giúp của máy tính đã trở thành một hiện tượng văn hóa phổ biến. Một ấn phẩm của tạp chí LIFE vào năm 1967 ghi nhận "Tất lẽ dĩ ngẫu, cuộc chơi của những người độc thân đã tận dụng được công nghệ và dịch vụ hẹn hò bằng máy tính đang phát triển bền vững như giá cổ phiếu IBM".
Operation Match trở nên ngày càng phổ biến và mở được văn phòng ở New York. Tuy nhiên, họ không đạt được nhiều thành công khi mở rộng ra các đối tượng không phải sinh viên. Dù sao đi nữa, dịch vụ đã giúp được hơn 1 triệu người tính đến năm 1968 và nhiều cuộc tương hợp cuối cùng đi đến hôn nhân.
Một cô dâu trong bộ váy cưới năm 1968
Cuối cùng, các nhà sáng lập ngày càng gặp khó khăn trong việc cân bằng việc học và kinh doanh. Họ quyết định bán công ty cho một tập đoàn lớn và một chiến dịch kết đôi tại khách sạn khác.
Di sản của Operation Match vẫn còn đó. Nhiều dịch vụ hẹn hò tiếp tục nổi lên vào các năm 1960 và 1970. Tới thập niên 1980, Internet đã cách mạng hóa việc hẹn hò qua hình thức nói chuyện trực tuyến. Dù có khởi đầu khiêm tốn, các ứng dụng hẹn hò dần trở thành một phần không thể thay thế trong văn hóa hẹn hò vào những năm 2010 và có lẽ là nhiều năm sau nữa.
Nguồn: HOY