Nhà Thanh (1636 - 1912) là triều đại phong kiến cuối cùng trong lịch sử Trung Quốc, kéo dài gần ba thế kỷ với tổng cộng 276 năm cai trị. Dưới sự lãnh đạo của triều đại này, Trung Hoa đã vươn mình trở thành quốc gia thịnh vượng bậc nhất trên thế giới thời bấy giờ, ghi dấu ấn sâu sắc về sự mở rộng lãnh thổ và gia tăng dân số. Lãnh thổ Trung Quốc đã được mở rộng gấp ba lần diện tích, bao phủ một khu vực rộng hơn năm triệu dặm vuông dưới sự cai trị của các hoàng đế. Dân số cũng tăng vọt từ khoảng 150 triệu lên đến 450 triệu người, minh chứng cho sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội vượt bậc. Triều đại nhà Thanh cũng chứng kiến những thành tựu văn hóa và nghệ thuật vô cùng phong phú và đa dạng.
Trong gần 300 năm lịch sử đó, triều đại nhà Thanh đã trải qua 12 đời vua với 13 niên hiệu khác nhau. Mỗi vị vua nhà Thanh gắn liền với một giai đoạn lịch sử, một cuộc đời và sự nghiệp đầy biến động. Trong số đó, ba đời Hoàng đế vĩ đại là Khang Hy, Ung Chính và Càn Long đã cùng nhau kiến tạo nên thời kỳ phát triển đỉnh cao của nhà Thanh. Giai đoạn này, được sử sách ca ngợi là "Khang - Càn thịnh thế", là một trong những thời kỳ huy hoàng và phồn thịnh nhất của các vương triều phong kiến trong suốt chiều dài lịch sử Trung Quốc.
Để giúp hậu thế có cái nhìn trực quan hơn về những nhà cai trị nổi tiếng một thời này, các bức tranh chân dung vẽ 12 hoàng đế nhà Thanh đã được phục dựng bằng công nghệ AI hiện đại, hé lộ phần nào dung mạo uy nghiêm và quyền lực của họ.
Sinh năm 1559, Ái Tân Giác La Nỗ Nhĩ Cáp Xích, hay Thiên Mệnh, là hậu duệ của người Nữ Chân. Ông chính là nhân vật lịch sử quan trọng đã thống nhất các bộ lạc Nữ Chân, xây dựng nền móng vững chắc cho nhà Thanh và lập ra chế độ Bát Kỳ nổi tiếng. Chế độ này về sau đã trở thành xương sống cho quân đội và chính quyền nhà Thanh. Sau khi ông qua đời vào năm 1626, con trai ông là Hoàng Thái Cực đã tiếp nối sự nghiệp, mở đường cho các thế hệ tiếp theo xây dựng nhà Thanh ngày càng hùng mạnh và cuối cùng là chinh phục Trung Nguyên. Về sau, ông được hậu duệ tôn vinh với miếu hiệu là Thanh Thái Tổ,.
Ái Tân Giác La Hoàng Thái Cực hay Sùng Đức (1592 - 1643) là người đổi tên nước từ Đại Kim thành Đại Thanh. Ông chính thức thành lập nhà Thanh và lên ngôi hoàng đế, trị vì nhà Thanh trong 17 năm rồi băng hà, được hậu duệ truy tôn miếu hiệu là Thanh Thái Tông.
Ái Tân Giác La Phúc Lâm hay còn gọi hoàng đế Thuận Trị là vị vua thứ ba của nhà Thanh, lên ngôi khi mới 6 tuổi. Tuy nhiên, vào năm 24 tuổi, vua Thuận Trị băng hà vì căn bệnh đậu mùa. Ông được hậu duệ truy tôn làm Thanh Thế Tổ.
Ái Tân Giác La Huyền Diệp hay còn gọi hoàng đế Khang Hy. Ông là vị vua trị vì lâu nhất trong lịch sử phong kiến Trung Quốc với thời gian cầm quyền 61 năm. Miếu hiệu của ông là Thanh Thánh Tổ.
Ái Tân Giác La Dận Chân hay còn gọi hoàng đế Ung Chính là con trai thứ 4 của vua Khang Hy. Trong suốt những năm trị vì, ông có nhiều cải cách lớn, chấn chỉnh vấn nạn tham nhũng trong triều đình. Ung Chính băng hà năm 1735 và được truy tôn là Thanh Thế Tông.
Ái Tân Giác La Hoằng Lịch hay còn gọi hoàng đế Càn Long là hoàng đế sống thọ nhất lịch sử Trung Quốc khi sống tới năm 88 tuổi. Ông qua đời năm 1799 và được truy tôn miếu hiệu là Thanh Cao Tông. Không như các vị Hoàng đế trên, AI vẽ lại chân dung Càn Long đế thời còn trẻ. Hình ảnh vị vua nổi tiếng này hiện lên trông rất hoạt bát, trẻ trung, anh tuấn và đủ đầy thứ gọi là "khí chất của Chân mệnh thiên tử".
Ái Tân Giác La Ngung Diễm (Vĩnh Diễm) hay còn gọi vua Gia Khánh là con trai của hoàng đế Càn Long nhưng không có những thành tựu trị nước giống vua cha hay các thế hệ đi trước. Dưới thời của ông trị vì, nhà Thanh dần đi xuống. Vào năm 1820, Gia Khánh băng hà và được truy tôn miếu hiệu là Thanh Nhân Tông.
Đạo Quang Đế là vị Hoàng đế thứ 8 của nhà Thanh, tại vị 30 năm, ông còn giữ thân phận đặc biệt là Đích trưởng tử duy nhất được kế thừa Hoàng vị trong triều đại này. Thời kỳ cai trị của ông gắn liền với sự kiện bước ngoặt Chiến tranh Nha phiến, mở đầu cho việc các nước phương Tây xâm nhập Trung Quốc và đẩy nhà Thanh vào giai đoạn suy yếu nghiêm trọng. Mặc dù là một vị vua cần kiệm, luôn lao tâm vì dân, nhưng Đạo Quang lại làm vua vào đúng lúc triều chính đã hủ bại, vận nước lung lay, và ông không có đủ tài năng để xoay chuyển thế cục đã vô phương cứu vãn.
Ái Tân Giác La Dịch Trữ hay còn gọi vua Hàm Phong nắm quyền khi nhà Thanh xảy ra nhiều biến cố lớn, bao gồm cuộc khởi nghĩa Thái Bình Thiên quốc. Thêm nữa, nhiều cải cách do ông đề xướng không thể thực hiện do chịu sự kiểm soát của Từ Hy Thái Hậu. Hoàng đế Hàm Phong qua đời năm 31 tuổi và được truy tôn miếu hiệu là Thanh Văn Tông.
Ái Tân Giác La Tải Thuần hay còn gọi vua Đồng Trị lên ngôi khi 5 tuổi. Từ Hi Thái Hậu khi ấy đã nắm quyền kiểm soát triều chính nên ngay cả khi trưởng thành, ông vẫn không thể có được quyền lực của một vị quân vương. Ông băng hà khi mới 19 tuổi và được truy tôn miếu hiệu là Thanh Mục Tông.
Ái Tân Giác La Tải Điềm hay còn gọi hoàng đế Quang Tự. Lên ngôi khi chỉ 4 tuổi, ông trở thành vị vua "bù nhìn" và người nắm quyền thật sự trong triều đình vẫn là Từ Hi Thái hậu. Năm 1908, hoàng đế Quang Tự băng hà, hưởng thọ 38 tuổi và được truy tôn miếu hiệu là Thanh Đức Tông.
Ái Tân Giác La Phổ Nghi hay còn gọi vua Phổ Nghi (1906 - 1967) là hoàng đế thứ 12 và cũng là cuối cùng của nhà Thanh cũng như lịch sử phong kiến Trung Hoa. Năm 2 tuổi, ông được Từ Hi Thái hậu được đưa vào cung để kế thừa Hoàng vị. Vào ngày 12/2/1912, vua Phổ Nghi thoái vị sau cuộc Cách mạng Tân Hợi, chấm dứt chế độ phong kiến ở Trung Quốc.