Vụ "boy phố cổ" bị tố đánh bạn gái sảy thai, "cuỗm" 61 triệu tiền sinh đẻ: Nếu đưa sự việc ra pháp luật, cơ quan điều tra sẽ khởi tố hình sự?

Minh Khôi, Theo Pháp luật và bạn đọc 12:32 23/03/2021
Chia sẻ

Theo luật sư Cường, trường hợp hai bên không có được tiếng nói chung mà một bên đưa sự việc ra pháp luật thì rất có thể cơ quan điều tra sẽ khởi tố vụ án hình sự, kể cả trong trường hợp nội dung sự việc là đúng sự thật hoặc hoàn toàn không có thật.

Những ngày qua, thông tin về việc chàng trai tên L. hay dân mạng hay gọi là "boy phố cổ" bị người yêu cũ tố cáo đánh đập mình tới mức sảy thai còn trộm 61 triệu tiền sinh đẻ, khi bị hỏi nợ thì đòi quay lại nếu không sẽ tung ảnh nóng khiến dư luận xôn xao.

Vụ boy phố cổ bị tố đánh bạn gái sảy thai, cuỗm 61 triệu tiền sinh đẻ: Nếu đưa sự việc ra pháp luật, cơ quan điều tra sẽ khởi tố hình sự? - Ảnh 1.

Bài đăng tải của M.L. về người bạn trai phố cổ trên MXH

Để làm rõ yếu tố pháp lý trong vụ việc này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với luật sư Đặng Văn Cường - Trưởng văn phòng luật sư Chính Pháp - Đoàn luật sư TP. Hà Nội. Nhận định về vụ việc, luật sư Cường cho rằng, đây là mâu thuẫn tình cảm giữa hai người và thông tin mà hai người đưa ra trên mạng xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng rất khác nhau. Tuy nhiên, dưới góc độ pháp lý thì vụ việc có dấu hiệu tội phạm, có thể là cố ý gây thương tích, trộm cắp tài sản hoặc là tội vu khống.

Trong vụ việc này, có thông tin cô gái cho rằng cậu thanh niên này đã đánh cô gái đến mức sảy thai, có tin nhắn cho thấy nam thanh niên này thừa nhận sự việc. Ngoài ra cô gái còn cho rằng nam thanh niên tên L. thừa nhận sự việc đã trộm cắp số tiền hơn 60.000.000 đồng của cô gái để chi tiêu cá nhân nhưng sau đó bị đòi tiền không trả...

Nếu một trong hai bên có đơn trình báo sự việc với cơ quan chức năng hoặc vụ việc gây dư luận xấu trong xã hội mà cơ quan chức năng vào cuộc xác minh làm rõ sự việc thì có thể xem xét về hành vi cố ý gây thương tích và trộm cắp tài sản nếu như nội dung tố cáo của cô gái là đúng.

Toàn bộ cuộc nói chuyện giữa L. và bạn gái cũ trước khi bị cô gái "bóc phốt liên hoàn"

Vụ boy phố cổ bị tố đánh bạn gái sảy thai, cuỗm 61 triệu tiền sinh đẻ: Nếu đưa sự việc ra pháp luật, cơ quan điều tra sẽ khởi tố hình sự? - Ảnh 3.

Đoạn tin nhắn mà người bạn trai phố cổ nhắn với bạn gái cũ

Vụ boy phố cổ bị tố đánh bạn gái sảy thai, cuỗm 61 triệu tiền sinh đẻ: Nếu đưa sự việc ra pháp luật, cơ quan điều tra sẽ khởi tố hình sự? - Ảnh 4.

Người bạn trai phố cổ nhắn tin đe dọa cô gái nếu không quay lại sẽ gửi ảnh nóng của cả 2 trước đây cho bố mẹ người yêu mới

Luật sư Cường phân tích: Nếu cô gái có đơn tố cáo thì cơ quan điều tra sẽ xác minh làm rõ cô gái này có bị đánh đập đến mức sảy thai hay không, ai là người gây thương tích cho cô gái này, hành vi gây thương tích diễn ra như thế nào, có hung khí hay không, có dấu vết để lại hay không? Việc cô gái sảy thai có phải là do hành vi cố ý gây thương tích gây ra hay không? Trường hợp kết luận giám định cho thấy cô gái có tỉ lệ thương tích do bị tác động từ bên ngoài và có căn cứ cho thấy có người đánh đập cô gái đến mức sảy thai như cô gái này đưa tin thì người đánh đập cô gái này có thể bị xử lý hình sự về tội cố ý gây thương tích theo quy định tại điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 và hành vi đánh phụ nữ có thai đến mức sảy thai là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Còn đối với hành vi số tiền hơn 60.000.000 đồng. Cơ quan điều tra sẽ làm rõ có việc cô gái thông tin là mất tiền là thật hay không. Nếu bị người khác lấy tiền, cô gái có biết hay không, có đồng ý hay không. Số tiền này sử dụng chung hay là có người đã lén lút chiếm đoạt số tiền này của cô gái?

Luật sư Cường cho rằng, những vấn đề này cơ quan điều tra sẽ làm rõ. Trong đó những yếu tố quan trọng để xác định có dấu hiệu cấu thành tội phạm hay không là làm rõ chủ sở hữu số tiền, việc lấy số tiền này như thế nào, việc sử dụng, đòi số tiền được diễn ra ra sao, trên cơ sở đó sẽ xác định có hành vi trộm cắp tài sản hay không để xử lý theo quy định của pháp luật. Bộ luật hình sự quy định hành vi lén lút mà chiếm đoạt số tiền từ 2.000.000 đồng của người khác thì sẽ bị xử lý hình sự về tội trộm cắp tài sản.

Cụ thể bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tội trộm cắp tài sản như sau:

"Điều 173. Tội trộm cắp tài sản

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm:

a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;

b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;

c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;

đ) Tài sản là di vật, cổ vật.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;

đ) Hành hung để tẩu thoát;

e) Tài sản là bảo vật quốc gia;

g) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 7 năm đến 15 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

b) Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm:

a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng."

Như vậy, theo luật sư Đặng Văn Cường, trường hợp có hành vi lén lút để chiếm đoạt tài sản của người khác với số tiền trên 60.000.000 đồng thì người vi phạm sẽ phải đối mặt với mức hình phạt tù từ 2 năm đến 7 năm tù theo khoản 2, điều 173 bộ luật hình sự năm 2015 nêu trên.

Trong trường hợp kết quả điều tra xác minh của cơ quan điều tra cho thấy không có việc đánh người, không có việc lấy tiền những tin nhắn là giả mạo để xúc phạm danh dự nhân phẩm của người khác thì người đưa ra những thông tin rõ ràng sai trái như vậy có thể bị xử lý hình sự về tội vu khống. Bộ luật hình sự quy định người nào loan tin, bịa chuyện những điều biết rõ là không đúng sự thật nhằm xúc phạm danh dự nhân phẩm của người khác hoặc tố cáo người khác thì sẽ bị xem xét xử lý hình sự.

Cụ thể tội danh và hình phạt được quy định như sau:

"Điều 156. Tội vu khống

1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 1 năm:

a) Bịa đặt hoặc loan truyền những điều biết rõ là sai sự thật nhằm xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự hoặc gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;

b) Bịa đặt người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 3 năm:

a) Có tổ chức;

b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;

c) Đối với 2 người trở lên;

d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh cho mình;

đ) Đối với người đang thi hành công vụ;

e) Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội;

g) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%;

h) Vu khống người khác phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 3 năm đến 7 năm:

a) Vì động cơ đê hèn;

b) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên;

c) Làm nạn nhân tự sát.

4. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 1 năm đến 5 năm."

Như vậy, trường hợp người nào loan tin bịa chuyện người khác vi phạm pháp luật nhằm xúc phạm danh dự nhân phẩm của người khác trên mạng xã hội thì hành vi này sẽ bị xử lý hình sự về tội vu khống và phải đối mặt với mức hình phạt từ 1 năm đến 3 năm theo quy định tại điểm e, khoản 2, điều 156 bộ luật hình sự năm 2015 nêu trên.

"Sự việc này không chỉ liên quan đến vấn đề đạo đức xã hội, mà còn ảnh hưởng đến danh dự nhân phẩm, uy tín của người khác, ảnh hưởng đến tài sản và sức khỏe của người khác đó là các khách thể mà pháp luật hình sự bảo vệ. Bởi vậy, trường hợp hai bên không có được tiếng nói chung mà một bên đưa sự việc ra pháp luật thì rất có thể cơ quan điều tra sẽ khởi tố vụ án hình sự nếu nội dung sự việc là đúng sự thật hoặc hoàn toàn không có thật", luật sư Cường nhấn mạnh.

TIN CÙNG CHUYÊN MỤC
Xem theo ngày