Cấu trúc đề thi tốt nghiệp THPT môn ngữ văn thường có 3 câu, trong
đó câu 1 hỏi về tiểu sử và sự nghiệp sáng tác của tác giả. Do đó, với
câu hỏi này đòi hỏi thí sinh phải thuộc bài, biết nêu những ý chính phần
tiểu dẫn trong SGK.
Tuy nhiên, so với SGK cũ, nội dung SGK mới hiện nay
có phần nhẹ hơn, không nặng nề như các năm trước. Thí sinh cần lưu ý
đây không chỉ là câu hỏi về tác giả văn học nước ngoài mà cả văn học
Việt Nam nữa. Thế nhưng, một số giáo viên có thói quen chỉ tập trung ôn
tập vào phần văn học nước ngoài, như thế là không được. Đây cũng là câu
hỏi “tốn công” thí sinh nhiều nhất vì phải nắm hết kiến thức tất cả tác
giả được giới thiệu trong chương trình. Nhiều khi đề bài cũng hỏi về một
số chi tiết trong tác phẩm. Ví dụ khi đề bài hỏi về: “Ý nghĩa hình
tượng rừng xà nu” thì phải xác định bên cạnh ý nghĩa tả thực còn
có ý nghĩa biểu trương của hình ảnh đó.
Ngoài thao tác giải thích phải
có dẫn chứng tiêu biểu để chứng minh. Phân tích tác phẩm văn xuôi đòi
hỏi phải nhớ dẫn chứng và biết cách cảm nhận nên khó hơn so với
phân tích thơ. Chính vì vậy, nhiều người hay bị sa vào diễn xuôi, kể lại
cốt truyện từ đầu đến cuối. Đây là điều cần tỉnh táo để tránh khỏi bị
“vướng” vào. Tất nhiên cách phân tích ở đây không giống như phân tích
toàn bộ tác phẩm ở bài văn nghị luận văn học như ở câu 3.
Câu 2, thuộc văn nghị luận xã hội, bàn về một vấn đề tư tưởng, đạo
lý hay hiện tượng xã hội trong cuộc sống. Mặc dù đáp án được 3 điểm
nhưng đa số thí sinh không trình bày đúng như đáp án vì chưa có nhiều
kiến thức xã hội nên tổng số điểm ít khi đạt được tối đa mà chỉ dao động
từ 1-1,5 điểm. Ở câu hỏi này các em vừa trình bày thực trạng, vừa giải
thích nguyên nhân, đồng thời tìm được giải pháp khắc phục. Ví dụ đề thi
yêu cầu: “Vai trò của nhà trường đối với việc truyền thụ kiến thức văn
hóa” thì thí sinh phải trình bày được những biểu hiện của vấn đề và biết
liên hệ vào thực tế.
Nên tìm những vấn đề gần gũi vì thông thường thí
sinh yếu về dẫn chứng thực tế. Thí sinh biết xác định đề bài hỏi về vấn
đề gì không phải là chuyện dễ. Muốn vậy thì phải có kỹ năng phân tích
đề. Khi luyện tập, giáo viên có thể đưa ra hai câu thơ hoặc một ý kiến
để các em phân tích, tập viết thành một đoạn văn.
Ở phần nghị luận văn học, giáo viên yêu cầu phân tích chi tiết
truyện như hành động cởi trói A Phủ của nhân vật Mỵ, nhan đề tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân, đôi bàn tay của Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu…
Khi luyện tập kỹ năng phân tích nhân vật, giáo viên không yêu cầu các
em phân tích toàn bộ tác phẩm mà “nhặt” ra một ý nhỏ, một sự kiện đặc
biệt trong cuộc đời nhân vật để tập phân tích như: “Niềm hi vọng tương
lai ở nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ nhặt”.
Đặc biệt, để hệ thống hóa kiến thức, giáo viên nên lập bảng hệ
thống để các em tự soạn bao gồm các cột như tên tác phẩm, thể loại, cuộc
đời tác giả, hoàn cảnh sáng tác, giá trị nội dung và nghệ thuật…
Phân tích tác phẩm văn xuôi phải chú ý tình huống truyện, kết cấu, miêu
tả tâm lý tính cách nhân vật, cách đối thoại, ngôn ngữ kể chuyện, giọng
văn… Phân tích nhân vật thì chú ý số phận, nội tâm, tính cách, mối quan
hệ của nhân vật này với các nhân vật khác. Phân tích thơ thì chú ý thể
thơ, hệ thống hình ảnh, sử dụng ngôn từ, bút pháp miêu tả…