Tại phiên xét xử sáng 21-8, sau khi nghe VKSND thị xã Kinh Môn công bố bản cáo trạng, trả lời Hội đồng xét xử, bị cáo Trương Thị Hương (SN 1986, ở phường Hiến Thành, thị xã Kinh Môn; thường được gọi là cô đồng bổ cau "đúng nhận, sai cãi") cho rằng cáo trạng truy tố tội danh không đúng. Bị cáo này liên tục nói: "Bị cáo bị oan, họ Trương bị oan" và đề nghị Hội đồng xét xử minh oan cho bị cáo và "họ Trương".
Trình bày tại tòa, bị cáo Trương Thị Hương nói rằng gia đình anh P.S.T. (ở phường Hiệp An, thị xã Kinh Môn) và anh T.T.X. (ở phường Dư Hàng, quận Lê Chân, TP Hải Phòng) tự nguyện đến nhờ cậy họ Trương, chứ bản thân bị cáo không dụ dỗ, không lôi kéo những người này đến cúng bái.
Bị cáo Hương chỉ thừa nhận nhận số tiền 4 triệu đồng từ gia đình anh T. do mẹ anh này nhờ mua lễ cúng rằm, mùng một tại điện của Hương. Bị cáo Hương không thừa nhận việc yêu cầu anh T. chuyển 40 triệu đồng và không yêu cầu mẹ anh T. chuyển 80 triệu đồng tiền lễ ở Thanh Hóa như cáo trạng đã nêu.
Khi HĐXX công bố tình tiết bà Nền (cô ruột của Hương) đã trả lại gia đình anh T. hơn 60 triệu đồng, bị cáo Hương xác nhận đúng nhưng khẳng định không tác động bà Nền đưa số tiền này và giải thích "gia đình họ Trương luôn làm công đức nên việc làm này là bình thường".
Cũng tại tòa, khi anh T.T.X. trình bày có đưa cho Hương 10 triệu đồng làm lễ, sau đó đưa Hương thêm 170 triệu đồng nhờ Hương giải hạn cho gia đình và bán được ngôi nhà, bị cáo Hương chỉ thừa nhận nhận số tiền 10 triệu đồng, không thừa nhận nhận số tiền 170 triệu đồng. Bị cáo Hương khai bà Nền đã đưa cho gia đình anh X. số tiền 10 triệu đồng nhưng bị cáo không tác động bà Nền làm việc này.
Bị cáo Hương cũng khai nhận các video, livestream hầu đồng, xem bói trên mạng xã hội bị cáo không tự làm mà do những người đến làm lễ tự ý quay rồi phát tán lên mạng xã hội.
Nữ bị cáo cho biết trước khi hành nghề cúng bái đã làm nghề tự do, buôn bán nhiều mặt hàng trong đó có bán thịt lợn.
Khi Hội đồng xét xử công bố tài liệu sao kê các số tiền chuyển đến tài khoản của Hương, bị cáo này nói rằng "không nhớ và không biết".
Theo cáo trạng của VKSND thị xã Kinh Môn, đầu năm 2022, Trương Thị Hương xây điện tại nhà ở phường Hiến Thành, thị xã Kinh Môn, để xem bói, lợi dụng sự mê tín của người dân để lấy tiền.
Ngày 19-2-2022, Hương lợi dụng sự mê tín của vợ chồng anh P.S.T. để chiếm đoạt tiền. Hương xem bói cho anh T., đưa ra thông tin gian dối là nếu không làm lễ giải hạn thì bố của anh T. sẽ gặp hạn, tiền của làm ra sẽ mất hết. Do tin tưởng, vợ chồng anh T. đã chuyển khoản cho Hương 2 lần, tổng số tiền là 62,5 triệu đồng. Sau khi làm lễ, anh T. thấy cuộc sống và công việc vẫn gặp khó khăn như trước, bố đẻ anh còn bị tai biến. Ngày 13-2-2023, anh T. làm đơn trình báo gửi Công an thị xã Kinh Môn.
Ngày 6-12-2022, Trương Thị Hương tiếp tục lợi dụng sự mê tín của vợ chồng anh T.T.X., xem bói cho anh và đưa ra thông tin gian dối để vợ chồng anh X. tin tưởng là nhà anh bị yểm bùa, có ma quỷ quấy phá... gia đình có vận hạn.
Hương nói với anh X. muốn giải vận hạn và bán được nhà thì phải làm lễ, chi phí hết 270 triệu đồng. Anh X. nói không lo được số tiền thì Hương giảm xuống còn 180 triệu đồng. Hương nói sẽ cho anh X. làm chủ đài, đến ngày 28-12-2022 sẽ bán được nhà, nếu nói sai thì Hương sẽ bị "mù mồm".
Vợ chồng anh X. tin là thật nên đã đưa cho Hương 2 lần tiền, tổng số là 180 triệu đồng. Làm lễ xong, vợ chồng anh X. chờ đến hết tháng 12-2022 vẫn không bán được nhà, công việc không thuận lợi. Ngày 12-2-2023, anh X. có đơn tố giác hành vi của Hương đến Công an thị xã Kinh Môn.
Tổng số tiền Hương chiếm đoạt của vợ chồng anh T. và vợ chồng anh X. là 242,5 triệu đồng.
Quá trình điều tra, bị can Trương Thị Hương không thừa nhận hành vi phạm tội của mình, tuy nhiên căn cứ vào lời khai của bị hại, người làm chứng, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Kinh Môn đã thu thập có trong hồ sơ vụ án, đủ căn cứ chứng minh hành vi phạm tội của Trương Thị Hương.
Với hành vi này, Trương Thị Hương bị truy tố về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 của Bộ luật Hình sự.