Cà phê và những cột mốc đầu tiên

MX, Theo 12:02 03/08/2010

Cà phê từ xa xưa đã là một thứ quý giá mà con người phải tranh giành, thậm chí là dùng cả những "tiểu xảo" để có được loại hạt thơm lừng này <img src='/Images/EmoticonOng/02.png'>

Cà phê ngày nay đã là một thứ đồ uống phổ biến, thậm chí là không thể thiếu đối với nhiều người. Vậy những nước được gọi là đầu tiên đón nhận cà phê như Ả Rập, Thổ Nhĩ Kì, Anh, Pháp, Hà Lan, Mỹ hay cường quốc cà phê Brazil đón nhận thứ hạt cà phê ấy trong những thời điểm và hoàn cảnh ra sao?
 
Câu chuyện bắt đầu từ một chàng chăn dê
 
Có rất nhiều những câu chuyện về cà phê. Được truyền tai nhiều nhất có lẽ là truyện về một anh chàng chăn dê tên là Kaldi, người xứ Abyssinia thuộc nước Ethiopia ngày nay.
 
Một hôm anh ta ngồi trên một tảng đá cạnh một sườn núi bỗng nhận ra đàn dê vốn dĩ ngoan ngoãn hiền lành của mình đột nhiên có vẻ sinh động lạ thường. Sau khi đến gần quan sát kỹ hơn, Kaldi thấy những con dê đã đớp những trái màu đo đỏ ở một cái cây gần đó. Tò mò, anh ta cũng liều lĩnh bứt một vài trái ăn thử và cũng thấy mình hăng hái hẳn, tràn đầy sinh lực.
 

 
Người chăn dê nghĩ rằng mình đã gặp một phép lạ, vội vàng chạy về một tu viện gần đó báo cho vị quản nhiệm. Nhà tu kia sợ rằng đây chính là một thứ trái cấm của quỉ dữ, lập tức vứt những trái cây chín đỏ kia vào lò lửa.
 
Thế nhưng khi những hạt kia bị đốt cháy lại tỏa ra một mùi thơm lừng, người tu sĩ mới tin rằng đây chính là một món quà của Thượng Ðế nên vội vàng khều ra. Những hạt rang kia được pha trong nước để mọi người cùng thưởng thức.
 
Nhưng đó dường như chỉ là một câu chuyện cổ tích mà người ta dựng lên để giải thích về nguồn gốc của cà phê.
 
Vòng quay của cà phê
 
Có nhiều ý kiến cho rằng cà phê được người Ethiopia phát hiện ra đầu tiên như câu chuyện ở trên nhưng vẫn không có nhiều bằng chứng thuyết phục. Lịch sử vẫn công nhận Ả Rập là quốc gia đầu tiên biết đến và dùng cà phê như một loại thức uống.  
 
Trước thế kỷ thứ 10, người Ả Rập thường hái cà phê để ăn, dùng như một loại thuốc kích thích. Trái cà phê chín được giã ra trộn với mỡ súc vật nặn thành từng cục tròn để dùng làm thực phẩm khi đi đường xa. Về sau cà phê được dùng làm thức uống nhưng cũng khác so với phong cách ngày nay.
 
Thời đó người ta chỉ ngâm nước những trái cà phê rồi uống, mãi tới thời trung cổ người Ả Rập mới biết tán ra bỏ vào nước sôi.

 
Thức uống đó chẳng mấy chốc trở nên nổi tiếng và người Ả Rập rất tự hào về phát minh này nên họ đã giữ bí mật để bảo tồn độc quyền cho sản phẩm của mình. Những khách hàng nước được thưởng thức nước cà phê đã lén lút đem hạt giống về trồng nên chẳng bao lâu khắp khu vực Trung Ðông đều có giống cây này, và nó còn được truyền đi mỗi lúc một xa hơn nữa.
 
Vào thế kỷ thứ 13, cà phê đã thành một thức uống truyền thống của người Ả Rập. Những quán cà phê với tên là "qahveh khaneh" hiện diện khắp nơi, từ thôn quê tới thành thị. Những quán đó trở thành những nơi sinh hoạt, với đủ loại giải trí từ âm nhạc đến cờ bạc và các triết gia, chính trị gia, thương gia thường lui tới để tụ tập sinh hoạt xã hội và bàn luận công việc làm ăn.
 
Mô tả một "qahveh khaneh".

Thế nhưng khung cảnh nhộn nhịp của các "hộp đêm" như thế cũng làm cho giới cầm quyền e ngại. Sợ rằng những phe đối lập có thể tụ họp bàn chuyện chống đối nên nhiều lần triều đình đã ra lệnh cấm và đóng cửa các "coffee houses" này nhưng không thành công.
 
Không những thế, sự cấm đoán lại còn khiến cho việc uống cà phê trở thành thói quen của thường dân vì từ nay một số đông sợ rắc rối nên uống ở nhà, kiểu cách uống cũng được nghi thức hóa.
 
Một "coffee house" ở Ả Rập.

Những thương gia đi tới những quốc gia Ả Rập đã đem thói quen này về bản xứ. Châu Âu được cho là nơi đầu tiên tiếp nhận văn hóa uống cà phê.
 
Kiện hàng cà phê đầu tiên được ghi nhận tại Venice, Ý vào năm 1615 do Thổ Nhĩ Kỳ gửi đến. Khi cà phê lan tới Rome, một lần nữa các nhà tu lại kết án đây là một thức uống của ma quỉ (the drink of the devil), và việc tranh chấp gay go đến nỗi Giáo Hoàng Clement VIII phải yêu cầu đem đến một gói cà phê mẫu để chính ông dùng thử. Và ông chỉ mới uống một lần đã "đổ" ngay thứ thức uống này và thấy rằng thật ngu xuẩn xiết bao nếu ban luật cấm cà phê.
 

 
Ðược Giáo Hoàng chấp thuận, số người uống cà phê lập tức gia tăng và chẳng bao lâu quán cà phê đầu tiên ở Châu Âu được khai trương tại nước Anh vào năm 1637 do một thương gia tên là Jacob (người Do Thái, gốc Thổ Nhĩ Kỳ) mở tại Oxford.
 

"Coffee House" Thổ Nhĩ Kỳ.
 
Kế đó là một quán cà phê khác ở London và rồi nhiều thành phố khác. Người ta bảo rằng những quán đó rất dễ nhận vì dù còn ở xa đã ngửi thấy mùi cà phê thơm nức, tới gần hơn thì bao giờ cũng có một bảng hiệu với một ly cà phê nghi ngút hay hình đầu một vị tiểu vương xứ Trung Ðông đang cầm trên tay cốc cà phê bốc khói nghi ngút.
 

 
Những quán mở gần trường đại học bao giờ cũng đông nghẹt giáo dư và sinh viên nên được gọi bằng cái mỹ danh "Đại học một xu" (penny universities), vì giá của một ly cà phê thuở đó chỉ có một penny thôi.
 


Ðến cuối thế kỷ 17, hầu hết cà phê trên thế giới đều nhập cảng từ các nước Ả Rập. Cũng như ngày nay người ta kiểm soát dầu hỏa, vào thời đó các nước Trung Ðông rất chặt chẽ trong việc sản xuất và xuất khẩu cà phê, và chỉ được mang hạt ra khỏi xứ sau khi đã rang chín để không ai có thể gây giống để đem trồng nơi xứ khác. Người ngoại quốc cũng bị cấm không cho bén mảng đến những đồn điền cà phê. Thế nhưng dù có nghiêm nhặt đến đâu thì vẫn có cách để "luồn lách".
 


Sau nhiều lần thất bại, người Hà Lan là dân tộc đầu tiên lấy giống được loại cây này đem về trồng thử trên đảo Java, Indonesia (khi đó là thuộc địa của họ). Thế là giống cây quí đã truyền sang Châu Âu mặc dù vẫn chỉ có thể trồng trong nhà kính.
 
Năm 1723, một sĩ quan hải quân Pháp trẻ tuổi tên là De Clieu, khi về nghỉ phép tại Paris, đã quyết định đem cây giống này về xứ Martinique, vùng biển Carribean là nơi anh ta đang làm nghĩa vụ. Chuyến đi của anh ta gặp khá nhiều gian nan, từ việc một gián điệp Hà Lan cố đổ một loại thuốc độc vào cây non, cho đến việc bị hải tặc chặn cướp con tàu rồi khi tới gần điểm đến, chiếc thuyền lại gặp bão suýt bị chìm.
 


Sau bao chông gai, cuối cùng De Clieu cũng thành công trong việc mang được cây cà phê trồng một nơi kín đáo, cắt cử ba thủy thủ canh gác ngày đêm. Chẳng bao lâu cây sau cây kết trái và chỉ hơn 50 năm sau tính ra đã có đến 18 triệu cây cà phê trồng trên hòn đảo Martinique.
 

 
Ngành buôn cà phê nay trở thành một cuộc cạnh tranh gay gắt giữa Hà LanPháp và chính việc tranh chấp giữa hai nước đã đưa đến một biến cố mới với nhân tố "Brazil". Trong khi hai nước có những bất đồng không thể giải quyết, họ đã nhờ chính quyền Brazil đứng ra dàn xếp.

Trong hội nghị để phân biện giữa hai bên, Brazil đã gửi một sĩ quan trẻ tuổi tên là Palheta đến làm đặc sứ. Palheta không những điển trai lại còn lanh lợi, khéo nịnh nọt nên chỉ trong ít ngày đã làm cho bà vợ của viên Thống sứ đảo Guiana của Pháp chết đứ đừ.
 

 
Palheta bí mật yêu cầu bà ta lấy cho mình ít hạt giống để "làm kỷ niệm". Trong buổi dạ tiệc tiễn đưa vị sứ thần, bà vợ viên Thống sứ đã tặng cho Palheta một bó hoa theo đúng phép lịch sự của Pháp, kèm theo một ám hiệu kín đáo: Nằm giữa bó hoa là những hạt cà phê tươi quý hơn vàng đối với người Brazil. Và đây chính là khởi đầu cho giống cà phê trồng tại Brazil, biến các quốc gia Trung, Nam Mỹ thành những đế quốc cà phê lớn vào bậc nhất thế giới về sau.
 

 
Cà phê do người Hà Lan truyền đến Bắc Mỹ vào năm 1660 ở vùng New Amsterdam. Bốn năm sau, người Anh chiếm vùng này và đặt tên là New York. Vào lúc đó, cà phê đã thành một thức uống quen thuộc thay bia vào bữa ăn sáng. Quán cà phê đầu tiên cũng theo dạng thức của London, tương tự như một quán trọ, có phòng cho thuê, cung cấp bữa ăn, có bán rượu, chocolate và cả cà phê. Quán nào cũng có một phòng ăn chung nơi đó nhiều hoạt động công cộng được thực hiện, dần dần trở thành nơi tụ tập bàn chuyện làm ăn.
 

 
Thoạt tiên, cà phê chỉ dành cho giới thượng lưu trong khi trà vẫn phổ biến hơn. Thế nhưng đến năm 1773, khi Anh hoàng George đánh thuế trà và người dân Mỹ nổi lên chống lại thì tình hình thay đổi. Người Mỹ giả dạng làm dân da đỏ tấn công những tàu chở trà đem hàng hóa đổ xuống biển. Biến cố lịch sử dưới tên Boston Tea Party đã làm cho người Mỹ nghiêng qua uống cà phê và chẳng bao lâu thức uống này biến thành một loại quốc ẩm.
 
Biến cố Boston Tea Party.
 
Cũng từ đó, cà phê đã lan rộng ra khắp thế giới và hình thành một thứ văn hóa cà phê với rất nhiều cách pha chế, thưởng thức khác nhau. Kênh14 sẽ có một bài riêng nói về các cách pha chế để các bạn tìm hiểu thêm.