Con đường đèo dốc chênh vênh dẫn vào bản Nậm Luông vỏn vẹn chỉ 7km, nhưng chúng tôi mất gần 3 tiếng đồng hồ cho hành trình ấy. Thầy giáo Chí (27 tuổi) một mình một xe máy, chân đi đôi ủng cao su, đầu đội chiếc mũ bảo hiểm to tướng. Bình thường, thầy đi chỉ khoảng 40 phút là tới điểm trường. Thầy dẫn đường, nhóm chúng tôi theo sau. Đến đoạn đường dốc dựng ngược hay bùn đất lênh láng, thầy đi chậm lại nhắc nhở. Chưa bao giờ, chúng tôi chứng kiến một con đường đến trường gian nan hơn như thế.
Nậm Luông - một bản nghèo nằm lọt thỏm giữa 4 bề đồi núi hoang vu. Khung cảnh kỳ vĩ của thiên nhiên không che đậy nổi sự khốn khổ cùng cực nơi đây: không điện, không nước, không sóng điện thoại. Lũ trẻ chân trần, không một manh áo, nguyên sơ nguyên thuỷ như cỏ cây hoa lá. Cứ 10 đứa thì phải đến 9 đứa ôm cái bụng ễnh lên vì đói. Người lớn quanh năm chỉ biết đến ngô, khoai, sắn. Họ không cần tiền, vì có tiền cũng chẳng biết để làm gì.
Cho đến một ngày, họ gặp "thầy" Quý.
Anh Phạm Đình Quý - KTS 46 tuổi không đứng trên bục giảng lần nào nhưng vẫn được các em nhỏ vùng cao gọi với cái tên thân thương: "thầy" Quý. Anh là người có tài "ảo thuật" biến những lớp học tạm bợ, tranh tre dột nát thành những ngôi trường mới kiên cố và vững chắc. Nhưng có lẽ, điều đặc biệt nhất, chính là tình thương và sự kính trọng mà bà con miền núi dành cho anh. Anh không chỉ xây trường, mà còn xây nên cả một cách sống và tiếp nhận mới cho người dân nơi đây.
KTS Phạm Đình Quý từng là giám đốc một công ty xây dựng. Sau khi công ty phá sản, anh cũng bỏ việc. Rảnh, anh tham gia hoạt động từ thiện, "chém gió phần phật" trên các diễn đàn với nick "Bừa", từng rất lừng lẫy trên Webtretho.
Năm 2012, trong một chuyến chở đồ từ thiện cho các em học sinh trường Trung Lý (bản Táo, xã Trung Lý, huyện Mường Lát, tỉnh Thanh Hóa) lần đầu anh và bạn bè được chứng kiến công cuộc "tìm chữ" của con em dân tộc khó khăn cỡ nào. Lũ nhỏ hầu hết đều là người dân tộc thiểu số Mông, Thái, Mường, Dao. Nhà nghèo lại ở rất xa trường, có em ở xa nhất tới 45km đường núi. Chúng không về nhà, xin thầy cô cho ở lại bán trú.
Cái gọi là nhà bán trú được dựng bằng tre nứa tạm bợ, hè không chắn được gió Lào, đông không ngăn được sương muối. Thức ăn hàng ngày của chúng chủ yếu là rau rừng nấu muối, thỉnh thoảng được cải thiện bằng thịt chuột tự săn.
Bạn cùng đoàn khi ấy bảo anh Quý: "Ông làm xây dựng, hay ông nghĩ cách xây cho chúng nó cái nhà bán trú?".
Để xây một ngôi trường trên núi cao, khâu vất vả nhất là vận chuyển vật liệu và xây móng đổ nền. Lúc đó, cả bản Táo cùng tập trung, người đập đá, người gùi gạch, gùi cát, xi măng... không khí vui như ngày hội. Khi công việc quan trọng được hoàn thành, người dân tiếp tục, người đánh vữa, người khuân gạch, người đun nước,... để xây phần tường. Mọi người sát cánh bên nhau chẳng khác gì một gia đình.
"Bắt tay vào mới thấy xây nhà trên núi việc gì cũng khó. Dốc núi quanh co, gần như dựng đứng, xe chở tôn vào gần đến nơi thì gãy cầu. Rất may, bà con dân tộc và các thầy cô giáo nghe tin đội xây dựng gặp khó đã tự nguyện dùng sức mình để vận chuyển từng viên gạch, từng bao xi măng lên chỗ xây dựng. Qua mấy tháng, tiền hỗ trợ đã cán mốc 670 triệu, chúng mình quyết định xây thêm từ bốn căn phòng bán trú, làm thêm bếp, nhà vệ sinh, bể nước và cả sân chơi".
Kiến trúc sư Phạm Đình Quý
Đêm bàn giao thi công, căn nhà mới được thắp điện rực lên giữa rừng xanh núi thẳm. Anh Quý ngồi nhìn ứa nước mắt.
Anh vẫn luôn nhớ về điểm trường đầu tiên ở Mường Lát như một dấu mốc lớn của cuộc đời, bởi cái khó khăn lần đầu được trải nghiệm cho anh thứ xúc cảm không bao giờ quên. Xây xong, thừa tiền ủng hộ, anh xây thêm cái thứ 2, thứ 3 cho học sinh vùng cao. Cho đến tận bây giờ, 5 năm với hành trình tìm đến 100 điểm trường khắp cả nước, là sự khó khăn, gian nan không hề nhỏ, nhưng cả quãng thời gian đó chưa bao giờ anh Quý thấy khổ, chỉ thấy niềm vui, tiếng cười và niềm hạnh phúc khi được cho đi.
Bất kỳ nhóm thiện nguyện nào khi kêu gọi được một khoản tiền lớn, hỏi nhau làm gì cho thiết thực nhất? Cứ đưa cho anh Quý "Bừa" nhờ xây một cái trường cho trẻ em vùng núi. Số tiền ấy thuê thợ sẽ thiếu nhưng anh luôn biết xây theo "giá từ thiện" nên sẽ ổn.
"Đến bây giờ, mình đã xây được 105 trường, vượt qua chỉ tiêu 100 cái. Thực ra mình nghĩ mình không thể dừng lại con số 100 vì nó "gối đầu" liên tục. Cứ thấy các cháu khổ mình lại tiếp tục xây, tiếp tục cố gắng. Bây giờ mục tiêu của mình là bao giờ yếu thì thôi.
5 năm nhìn lại cả chặng đường, biết bao người đã giúp đỡ, biết bao nhà hảo tâm đã tin yêu và ủng hộ dù chưa 1 lần gặp mặt. Đó là 1 tài sản vô giá, là "món nợ" tươi đẹp của cuộc đời. Nợ tiền thì mình đang nợ nhiều lắm, nhưng nợ tình thì có lẽ kiếp này mình không trả đủ đâu".
Làm từ thiện trước giờ là con dao hai lưỡi. Với hơn 100 điểm trường xây dựng, tương đương số tiền hàng chục tỉ tiền quyên góp của vô số mạnh thường quân, chưa có ai từng nghi ngờ người thợ cả Phạm Đình Quý. Một trong những lý do người ta tin tưởng giao tiền cho anh xây trường là vì anh luôn công khai mọi khoản chi phí. Với mỗi dự án, anh lại có một bảng tính kê khai mọi hạng mục chi tiết và công khai trên trang cá nhân của mình. Thậm chí đến 5 năm sau, nếu có ai hỏi, anh vẫn sẽ trả lời số tiền ấy được tiêu vào đâu, nhằm mục đích gì.
Anh Quý đã vượt hơn 365.000 km dọc khắp đất nước trong vòng 5 năm, tương đương khoảng 9 vòng Trái đất, đến bao miền đất xa xôi hẻo lánh nơi địa đầu tổ quốc, nhưng khi đặt chân tới Nậm Luông (Lũng Hồ, Hà Giang), anh chợt chạnh lòng. Hà Giang dẫu đẹp nhưng lại nghèo.
"Mình đi xây hơn 100 trường, gặp biết bao nhiêu người nhưng mình không nghĩ khi đến xã Lũng Hồ lại có nhiều điểm trường nghèo đến thế. Nghèo một cách tăm tối, nhất là ở Nậm Luông. Vào 10 nhà dân thì nhà nào cũng có người bị ốm, nằm liệt giường. Cái chết của họ đơn giản và không ai biết đến".
Điểm trường Tiểu học Nậm Luông nằm trên một con dốc cao. Thứ duy nhất để phân biệt trường học với những căn nhà xung quanh là tấm bảng dựng tạm bợ. Là một ngôi trường xuống cấp, dột nát chỉ với 2 phòng học và một phòng giáo viên, nhưng cũng đầy chắp vá. Mùa đông gió thổi từng cơn, mùa mưa nước lênh láng ngập phòng. Điện không có, cửa cũng không, bàn ghế xuống cấp không đủ tiêu chuẩn cho học sinh ngồi viết.
"Khi mình đến đây nhìn thấy cái trường nghèo nàn quá. Với điểm trường Nậm Luông mình mất 2 tháng rưỡi từ khâu khảo sát trường học, tìm nguyên vật liệu và tiến hành xây dựng. Đội thợ xây phải làm việc liên tục, người dân mỗi người 2 viên gạch gùi từ ngoài đường lớn vào trong bản. Xây xong mình nghĩ nếu ngôi trường này có giá 500 triệu, thì 300 triệu thuộc về nỗ lực và sự giúp sức của dân bản".
Nậm Luông trong suy nghĩ của anh Quý là một xứ sở cách biệt gần như với thế giới ngoài kia. Tại sao lại có vùng đất khổ cực đến thế? Nơi mà mỗi đứa trẻ muốn tới trường phải trèo đèo, lội suối rất xa, hơn chục cây số đường bộ. Nhưng, dân bản sẽ rất vui khi ngôi trường đã hiện diện. Những căn nhà bê tông mái ngói đỏ tươi chính là dấu hiệu của sự đổi thay, của tương lai và một mai hy vọng.
Với mỗi điểm trường từ Điện Biên tới Lai Châu, Bắc Kạn, Hà Giang,... trung bình được xây nên từ 10.000 viên gạch, 30 khối cát và khoảng 10 tấn xi măng. Những con số biết nói này chứng minh một thứ sức mạnh phi thường của người thợ cả. Anh Quý từng thổ lộ, bản thân anh luôn tìm những điểm trường khó khăn nhất để làm. Càng ở sâu, xa, điều kiện đường sá càng khắc nghiệt nhưng anh chưa từng từ chối bất cứ đề nghị nào. Anh bảo nhớ mãi lần phải xây một lớp học ở Mèo Vạc. Vì lớp học này bé thôi nhưng nó lại là công trình có thử thách cao nhất. Nhớ hôm đến khảo sát công trình, mọi người trên xe đều bảo rằng "Khó lắm Quý ơi, nhìn nhà dân đều bằng tre nứa chứ có nhà gạch nào đâu..." nhưng anh vẫn kiên định phải làm. Và chỉ sau 1,5 tháng thi công, công trình xong sớm hơn dự định. Đặc biệt, nhìn lũ nhỏ càng đáng thương anh càng muốn giúp chúng đổi đời.
"Bọn trẻ con rất vui vì tất cả động lực đều xuất phát từ chúng. Ngày trước chưa có trường học, chúng rủ nhau đi cạo mủ cao su được hơn 100.000 đồng mỗi ngày. Khi có trường rồi chúng quay về. Chứng kiến sự thay đổi ở mỗi điểm trường, mình nhận ra sự đầu tư về tri thức chưa bao giờ là thừa. Có cái chữ, các em nhìn đồi trọc sẽ biết trồng cây gì, nuôi con gì để làm giàu cho quê hương. Đó mới là giá trị con người, mình nghĩ như vậy!".
Nhìn con số 10, 20, 30 ngôi trường các bạn có thể nghĩ rằng "vậy là đã ổn", nhưng không, anh Quý từng cảm thấy chạnh lòng với chính mình, với chính nghề xây dựng. Anh nghĩ: 40 năm cuộc đời, quay lại xem mình làm được gì? Chưa được gì cả. Quyết định kêu gọi bạn bè xây nhà bán trú cho các em ở Mường Lát là sự khởi đầu cho chuỗi ngày anh tìm lại đúng bản ngã cuộc đời.
Một câu hỏi nữa cũng rất nhiều người thắc mắc, anh Quý xây trường từ thiện như vậy là có công hay không công? Câu trả lời luôn nhất quán: tiền khảo sát (thường mất từ 1-3 triệu mỗi điểm trường) hầu như không công. Tiền bản vẽ, giám sát, quản lý… tất cả gộp lại anh tính công mình bằng công một thợ xây. Trong trường hợp quản lý nhiều điểm xây dựng, anh chỉ tính công mình bằng nửa công thợ xây. Không hơn!
Khó khăn nhất trên hành trình xây trường, không phải vực sâu thăm thẳm, cũng chẳng phải những cung đường phóng vượt tầm mắt, ấy là niềm tin nơi bà con dân bản. Với người dân thì đơn giản lắm. Họ nghèo, cùng theo đó là những tập tục cổ hủ lạc hậu và bảo thủ. Nhưng tất cả thói xấu của họ đều dễ dàng có cách khắc phục bằng sự chân thành, chia sẻ khó khăn, cùng làm, cùng chuyện trò gần gũi. Và cuối cùng, họ đã tích cực cùng chung sức để xây dựng những ngôi trường mới bằng tình yêu thương của chính họ.
"Nếu nói khó khăn thì ngay ngôi trường đầu tiên đã khó khăn, nhưng mình dần làm quen với những khó khăn đó. Khi đến với người dân tộc, nhược điểm không chỉ về ngôn ngữ, mà còn văn hoá tập quán. Có những cái mình rất tức giận. Như họ hay uống rượu rồi ra công trình lấy trộm nguyên vật liệu. Mọi hành động đều xuất phát từ sự thiếu thốn. Có những viên gạch nát mình phải đi mua rất xa, mình tức giận, nhưng chỉ là nhất thời. Sau nghĩ lại, họ nghèo khổ, khốn khó, mình cần tha thứ cho họ".
Đến giờ, anh Quý tự cảm thấy đang có một thứ "quyền lực" rất lớn trong tay. Đó là sự tin tưởng của các mạnh thường quân, của chính quyền địa phương, dân bản và anh em thợ xây. Chán nản và mệt nhọc thì có, nhưng chưa bao giờ anh nghĩ đến việc từ bỏ.
"Vì mình thấy yêu thương dân bản, trẻ em vùng cao như yêu thương chính người thân của mình. Nhiều lúc mình nghĩ nếu đây là con mình thì sao, chúng cũng có quyền hạn cơ bản của một con người là được sinh ra và lớn lên.
Nói về hoạt động lâu dài thì có lẽ cá nhân mình không đủ sức, nhưng mình có nhiều bạn bè chuyên về tủ sách, áo ấm hay dạy học. Chúng mình sẽ cùng nhau gom tất cả tình thương về những nơi xa xôi nhất dựng nên những ngôi trường mới, tuy không quá khang trang nhưng đủ để giúp lũ nhỏ biết mặt chữ, con số".
Trò chuyện với anh Quý, chúng tôi vẫn luôn tự hỏi niềm cảm hứng nào đưa anh “lạc lối” đến những miền núi cao, nơi xa xôi hẻo lánh nhất của đất nước? Anh Quý chỉ cười, đáp gọn lỏn.
"Đối với các tỉnh nghèo miền núi phía Bắc, việc xây trường cho các cháu rất nhân văn. Lũ trẻ không cần một ngôi trường có kiến trúc, quy mô đẹp, chúng chỉ cần có nơi để học. Mình nghĩ những người nào làm được ra tiền thì không có thời gian, còn những người có thời gian thì người ta không có tiền. Mình dùng toàn bộ sức lực tổng hợp những cái "tốt" lại để có một giá trị đích thực".
Bao nhiêu điểm trường được xây nên là bấy nhiêu kỷ niệm đầy vương vấn. Anh Quý tự nhận mình là một con thoi đi lại giữa trùng điệp núi non. Cứ khoảng 1 - 2 ngày ở điểm trường này, anh lại di chuyển tới điểm trường khác. Anh về thăm nhà rất ít, một năm chắc được 5 - 7 lượt. Nếu không vướng bận gì, anh cứ men theo hình tam giác của biên giới phía Bắc mà đi.
Vợ và 2 con của anh đều hiểu sở thích có phần "điên rồ" của chồng, cha mình. Họ không ngăn cản, ngược lại đều ủng hộ, thông cảm với con người lạ kỳ suốt ngày đánh võng đường núi, nói chuyện gì cũng quy ra xây được mấy cái trường cho trẻ em. Anh ôm hoài bão lớn, thế nên buộc phải hy sinh những thứ của riêng bản thân mình.
"Như trước đây, việc xa nhà đi xây trường rất khó nói. Nhiều người trách mình bỏ mặc vợ con, nhưng đến bây giờ mình không phải nói gì nữa, người ngoài họ tự hiểu. Thực tế đây cũng là bài học cho con cái mình, là tình yêu thương, là tính nhân văn".
Nhiều khi nghĩ lại, anh Quý cảm thấy điều may mắn nhất trên hành trình này chính là sức khoẻ. Mỗi sáng cứ mở mắt ra chứng kiến công việc tốt đẹp, anh lại tiếp tục bước về phía trước. Nếu có một ngày bỗng lăn đùng ra ốm, có lẽ trước mắt thì chưa nhưng sau này chắc sẽ có, thì anh sẽ lấy nụ cười của lũ trẻ làm động lực để vượt qua tất cả. Chỉ cần nhìn thấy sự đổi thay của từng đứa, nhìn chúng hồng hào hơn, béo đẹp hơn, biết bập bẹ vài ba từ tiếng Kinh thôi, cũng sẽ là liều thuốc tinh thần lớn nhất dành tặng anh.
"Mình có một kỷ niệm khi đến Nghệ An khánh thành trường. Dân bản khi ấy có mổ lợn, mổ gà mời những người lớn tới ăn, nhưng mình không thấy phụ nữ và trẻ em đâu. Sau khi ăn xong, mình xuống công trình thấy bọn trẻ ngồi chơi rất xa. Nhìn kĩ, hoá ra chúng đang nhặt những mẩu xương ăn một cách ngon lành. Thực sự mình quá xúc động. Mình nghĩ có thể mình đã quên chúng trong chốc lát, nhưng mình sẽ rút kinh nghiệm ở các điểm trường khác. Mình hy vọng, các cháu đều sẽ cùng được ăn những bữa cỗ hoành tráng".
Buổi đêm trước khi khai giảng điểm trường Nậm Luông, anh Quý vẫn luôn trằn trọc, ngày mai nếu có mổ lợn, mổ gà, ắt phải cho lũ nhỏ cùng ăn. Đêm ấy, Nậm Luông đen đặc bốn góc trời, mây và trăng hoà vào làm một. Khung cảnh xung quanh chỉ một màu tối u uất, thỉnh thoảng leo lét ánh sáng vài chiếc đèn pin nhỏ. Ở nơi đây, cuộc đời mai sau của lũ trẻ phụ thuộc phần nhiều vào chính chúng nó.
Sáng hôm sau, mặt trời lên cao quá đỉnh đầu. Một ngày mới bắt đầu ở Nậm Luông.
Một ngôi trường xinh đẹp đã hiện diện giữa bản nghèo. Đoàn giáo viên từ xa cuốc bộ vào trường, trên vai họ nào những chăn ấm, sách vở, quần áo mới. Bà con dân bản cùng con em kéo đến đứng chật sân. Điểm trường khánh thành trong niềm vui hân hoan, phấn khởi. Vậy là, ánh sáng mới rực rỡ bắt đầu ló rạng ở Nậm Luông, là niềm tin và sự hy vọng mà người thợ cả gửi trao nơi buôn bản xa xôi này. Dành cả tuổi trẻ để xây trường cho trẻ em vùng cao, thanh xuân của KTS Phạm Đình Quý giúp chúng ta có thể mỉm cười hạnh phúc giữa mịt mù cuộc sống.
Ngày hôm ấy, dân bản Nậm Luông vui lắm. Ai cũng bảo sao được tặng đồ nhiều thế anh Quý?
Anh trả lời, "Bởi cho đi là thứ dễ làm nhất của cuộc đời này mà".