Vào làng phải có… phiên dịchCách trung tâm Thủ đô khoảng 40km là Đa Chất (Đại Xuyên, Phú Xuyên), nằm giữa ngã ba của sông Lương và sông Măng Giang (tên cổ của sông Nhuệ) là làng Đa Chất. Đến đây như lạc vào một vùng đất lạ vì dân làng sử dụng một thứ ngôn ngữ riêng để trao đổi. Nếu không phải là người dân sở tại, muốn nghe được thì bạn phải có người… phiên dịch!
Gặp tôi ở cổng ngôi đình, ông Thủ từ có tên
Nguyễn Văn Đoàn, năm nay 73 tuổi cất giọng hỏi anh bạn đi cùng, vốn là người gốc của đất này:
"Mỗ khái, mỗ lõng ngoại?" Nghe ông
Đoàn hỏi vậy, anh bạn tôi cười rồi nói lại:
"Ông ấy hỏi cậu từ thành phố hay người làng khác đến?" Bạn tôi dùng thứ ngôn ngữ của làng trả lời, lúc đó ông Thủ từ
Đoàn mới dùng tiếng phổ thông để nói chuyện.
Đường vào xã Đại Xuyên - nơi có làng Đa Chất có ngôn ngữ cổ. Mời tôi vào bệt cưu (đình làng) ông
Nguyễn Văn Đoàn cho biết: Cái lệ tục của làng nó vậy. Gặp người làng đầu tiên là phải dùng thứ ngôn ngữ này để trao đổi với nhau không. Lệ làng quy định tất cả những người sinh ra ở Đa Chất đều phải học thứ tiếng này.
Ngôn ngữ lạ mà người Đa Chất đang dùng này vô cùng phong phú. Thứ tiếng này rất ít vay mượn từ ngữ của nơi khác. Ngoài sự phong phú về vốn từ vựng, thứ ngôn ngữ tạm coi là cổ (nhiều người còn cho là tiếng lóng) này của người Đa Chất rất giàu biểu cảm. Từ ngữ và cách sử dụng của họ cũng hết sức hình tượng, mà khi được nghe, tuy chưa biết nhưng cũng dễ để người ta hình dung ra được những gì mà người Đa Chất đang muốn nói.
Trong ý kiến của những người biết và quan tâm đến thứ ngôn ngữ này, có người quả quyết đây là thứ ngôn ngữ thời Văn Lang - Âu Lạc còn lưu giữ lại. Chẳng hạn như để chỉ người bề trên, người quan trọng thì người Đa Chất dùng từ: Chóp bu. Từ này ngày nay đã phổ biến với ngôn ngữ phổ thông, chúng ta cũng hay dùng, ví như nhân vật chóp bu, quan chức chóp bu…
Hay như từ Xấn xổ, người Đa Chất dùng để nói đến một hành vi tiến tới dùng sức lực và kể cả bạo lực để làm một cái gì đó mà người khác không muốn hay bị cưỡng ép.
Ngày nay tiếng phổ thông ta cũng dùng từ này để chỉ những hành vi như trên như: Hắn ta xấn xổ đến, người ta xấn xổ tới… Cùng với từ xấn này, người Đa Chất đã ghép nó với các âm khác để hội thoại như: Xấn vụ (đóng cối), xấn đìa (làm ruộng), xấn bệt (làm nhà).
Ngay từ bệt để chỉ cái nhà thôi cũng rất hay, giàu hình ảnh và có sức liên tưởng. Chúng ta thường dùng từ như đánh bệt, ngồi bệt xuống để chỉ hành động và trạng thái rất thoải mái của con người.
Bệt - nhà, ai cũng vậy, khi về đến nhà, người ta về với cái riêng của mình, lúc đó mọi sinh hoạt và giao tiếp cũng được cho là thoải mái nhất. Để chỉ cái đẹp, người Đa Chất dùng từ choáng. Bệt choáng (nhà đẹp), nhát choáng (gái đẹp)… Và nay, người ta vẫn dùng từ này để chỉ những cái đẹp đến sửng sốt như: Cô ấy trông choáng nhỉ? Ông ấy có cái nhà choáng nhỉ…
Không chỉ hình tượng và tạo sự liên tưởng, hệ số đếm của làng cũng được hình thành với những cách đếm riêng và không phải vay mượn. Nhất (một), nhị (hai), thâm (ba), chớ (bốn), dâu (năm)… mười là lạp. Lái Lạp (hai mươi), thâm lạp (ba mươi)… bích (một trăm), bích rộng (một nghìn)… Thậm chí một số vật dụng thời hiện đại cũng đã được người dân ở đây chuyển theo ngôn ngữ riêng của mình.
Đồng hồ (sưỡn nhật), sưỡn mỗ (ô tô), sưỡn trì (tàu thuỷ), sưỡn xì thiên (máy bay)… Có thể khẳng định rằng, với quy định và việc hình thành ngôn ngữ, người Đa Chất đã có tới 99% ngôn từ giao tiếp cho tiếng nói riêng của mình.
Nơi còn lại duy nhất ngôn ngữ cổ Văn Lang - Âu Lạc?Vì theo lệ quy định nên người Đa Chất rất có chủ định về việc bảo lưu thứ ngôn ngữ này. Làng quy định chỉ truyền cho những người thuộc làng mình.
Hiện nay, giả thiết được coi là khoa học và phù hợp nhất: Đây là một dòng ngôn ngữ cổ, có thể là ngôn ngữ Văn Lang - Âu Lạc. Ông Chu Huy (Hội viên Hội Ngôn ngữ Việt Nam) và Nguyễn Dấn (Hội viên Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam) đã bước đầu khẳng định: “Tìm hiểu những biệt ngữ này thấy có sự kết hợp giữa âm Nôm và âm Hán Việt, âm thông dụng và âm ít dùng, âm nói tắt, âm nói gọn và âm dân dã”.
Hơn thế, người dân ở đây còn truyền tụng một câu nói: “Sinh Bạch Hạc, thác Ba Lương”. Theo thần phả của làng, đình Đa Chất hay đền Ba Lương chính là nơi thờ tự Trung Thành Đại Vương làm thành hoàng làng. Mà Trung Thành Đại Vương còn được gọi là Thổ Lệnh Trưởng - là Tướng chỉ huy Thuỷ quân thời Vua Hùng. Ngài là con thứ ba trong một bọc gồm 5 người con của vị Hào trưởng vùng Hồng Giang (sông Hồng) có tên là Đào Công Bột. Câu “Sinh Bạch Hạc” nói về Đào Công Bột còn “Thác Ba Lương” nói về sự hoá của Thổ Lệnh Trưởng con Ngài trong cuộc chiến Hùng - Thục.
Có thể đây là một “khoá mở” cho dòng ngôn ngữ này vì với giả thiết, trước đây Trung Thành Đại Vương đã mang thuỷ quân của Hùng Vương xuống đây trấn đóng. Và với sự trấn đóng này, Ngài đã truyền thụ thứ ngôn ngữ cổ trên vùng đất này.
Sự hiện diện của một hệ thống ngôn ngữ mà người Đa Chất đang sử dụng, việc đóng thuỷ trại của Thổ Lệnh Trưởng vùng Bạch Hạc, Hồng Giang có một mối liên hệ với nhau như thế nào về ngôn ngữ? Và “nghi vấn” về một nền ngôn ngữ cổ thời Văn Lang - Âu Lạc đang hiện diện ở Đa Chất có chính xác hay không? Câu hỏi này người Đa Chất và những người quan tâm đang trông chờ lời giải từ các nhà khoa học về ngôn ngữ, lịch sử và khảo cổ.