PGS Việt 2 lần được Nga mời mổ thị phạm: Tự mày mò làm chủ kỹ thuật mổ "đi du lịch trong não người"

Ngọc Minh, Theo Đời sống & Pháp luật 15:29 02/11/2025
Chia sẻ

Vị Phó Giáo sư này được giới chuyên môn biết đến là một trong những người tiên phong đưa kỹ thuật mổ nội soi thần kinh về Việt Nam.

PGS.TS Đồng Văn Hệ, Phó Giám đốc Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức, Chủ tịch Hội Phẫu thuật Thần kinh Việt Nam được giới chuyên môn biết đến là một trong những người tiên phong đưa kỹ thuật mổ nội soi thần kinh về Việt Nam. Từ những ngày đầu tự mày mò với thiết bị thô sơ, đến hai lần được mời sang Nga mổ thị phạm quốc tế, hành trình hơn hai thập kỷ của ông là câu chuyện về đam mê, sáng tạo và tinh thần dấn thân không ngừng nghỉ.

Hai lần mổ thị phạm tại Nga

Ngọc Minh: Thưa Phó Giáo sư, được biết ông vừa có chuyến công tác đặc biệt tại Nga, tham gia một chương trình phẫu thuật và đào tạo quốc tế. Ông có thể chia sẻ thêm về lần công tác này?

PGS.TS Đồng Văn Hệ: Đây là khóa đào tạo do hội phẫu thuật thần kinh Tyumen tổ chức, chủ yếu dành cho các bác sĩ trẻ. Trước đó, năm 2023 tôi đã từng sang Nga phẫu thuật một lần và lần này là lần thứ hai được mời tham gia.

Thông thường, trong các khóa đào tạo như vậy, họ mời chuyên gia hàng đầu từ nhiều quốc gia đến hướng dẫn và trình diễn kỹ thuật. Đợt này có các giáo sư đến từ Nhật Bản, Ấn Độ, Ý, Brazil và tôi đại diện cho Việt Nam. Mỗi người đảm nhiệm một lĩnh vực chuyên sâu khác nhau: Giáo sư Nhật mạnh về phẫu thuật mạch máu não, chuyên gia Brazil chuyên u nền sọ... Còn tôi phụ trách các ca nội soi điều trị bệnh lý dây V, một trong những kỹ thuật khó nhất hiện nay trong phẫu thuật thần kinh.

PGS Việt 2 lần được Nga mời mổ thị phạm: Tự mày mò làm chủ kỹ thuật mổ "đi du lịch trong não người"- Ảnh 1.

PGS.TS Đồng Văn Hệ (Ảnh thiết kế: Hà Linh).

Ngọc Minh: Làm việc ở một môi trường mới, với ekip hoàn toàn khác, ông có gặp khó khăn gì không?

PGS.TS Đồng Văn Hệ: Thật ra, mọi thứ diễn ra rất trơn tru. Dù ekip hỗ trợ là bác sĩ người Nga, nhưng tinh thần hợp tác và sự chuyên nghiệp của họ khiến ca mổ diễn ra suôn sẻ.

Lần đầu sang Nga, tôi đi một mình và bác sĩ Nga là người phụ mổ. Sau khi xem tôi mổ thị phạm, một thời gian sau, tôi nhận được tin nhắn từ đồng nghiệp Nga: “Tôi đã làm được hai ca rồi!”. Chỉ sau một buổi trình diễn, họ đã có thể áp dụng thành công.

Điều khiến các đồng nghiệp Nga thích thú chính là ưu điểm vượt trội của nội soi so với phương pháp mổ kinh điển. Với vi phẫu truyền thống, ánh sáng chiếu từ kính hiển vi bên ngoài vào vùng mổ giống như soi ánh đèn qua khe cửa vào căn phòng tối. Còn nội soi, chúng tôi đưa nguồn sáng trực tiếp vào trong não như mang ngọn đèn vào giữa căn phòng.

Ánh sáng khi ấy rõ, rộng, chiếu sáng mọi ngóc ngách, giúp bác sĩ quan sát được toàn cảnh cấu trúc mạch máu, dây thần kinh. Hình ảnh sắc nét, độ phóng đại lớn, màu sắc trung thực chúng tôi vẫn nói vui là “đi du lịch trong não người”. Mỗi ca mổ, vì thế, vừa là một hành trình khoa học vừa là một tác phẩm nghệ thuật.

Bước đi đầu tiên của mổ nội soi thần kinh tại Việt Nam

Ngọc Minh: Ông nói rằng đây là phương pháp khó, vậy khi đưa kỹ thuật này về Việt Nam lần đầu tiên, ông có lo ngại gì không?

PGS.TS Đồng Văn Hệ: Ở Việt Nam, phẫu thuật nội soi bắt đầu khá sớm, từ những năm 1992–1993 với các ca cắt túi mật hay ruột thừa. Nhưng nội soi trong não thì phải đến năm 2003, chúng tôi mới thực hiện ca đầu tiên tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức. Ban đầu đó chỉ là kỹ thuật đơn giản, thường quy.

Khoảng năm 2008, khi kinh nghiệm và kỹ năng đã đủ "chín", chúng tôi bắt đầu thực hiện phẫu thuật u hộp sọ bằng nội soi. Riêng phẫu thuật nội soi dây V, tôi chỉ triển khai trong 5 năm gần đây, từ năm 2020. Trước đó, chúng tôi chủ yếu mổ vi phẫu, có hỗ trợ nội soi, vừa làm vừa quan sát để đảm bảo an toàn tối đa cho người bệnh.

Thời gian đầu, điều kiện vô cùng thiếu thốn. Thiết bị gần như không có, chúng tôi phải vay mượn, xin hỗ trợ từ bạn bè quốc tế. Một Giáo sư người Úc từng tặng tôi bộ dụng cụ cơ bản, trong đó có cả màn hình. Từ những trang thiết bị thô sơ ấy, chúng tôi bắt đầu những ca nội soi não thất đầu tiên đơn giản nhất.

Sau này, tôi có cơ hội sang Úc và Nhật học kỹ thuật nội soi. Khi trở về, chúng tôi tiếp tục mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác: nội soi dây V, dây VII, dây IX–X, điều trị u biểu bì, u màng não, nang nhện… Mỗi năm, chúng tôi lại tiến thêm một bước trên hành trình làm chủ kỹ thuật nội soi thần kinh tại Việt Nam.

Ngọc Minh: Nghe ông kể, rõ ràng con đường ấy không hề dễ dàng. Vậy khó khăn lớn nhất thời điểm đó là gì?

PGS.TS Đồng Văn Hệ: Khó khăn lớn nhất là thiết bị và kinh phí. Một hệ thống nội soi hoàn chỉnh cho phẫu thuật não có giá hàng trăm nghìn USD. Khi chưa có điều kiện, chúng tôi mượn hoặc được bạn bè quốc tế cho dụng cụ. Suốt cả chục năm, chúng tôi chỉ làm được những ca đơn giản.

Sau này, khi được đầu tư thiết bị hiện đại, chúng tôi mới có thể thực hiện nhiều ca phức tạp hơn. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, chúng tôi phải tự mày mò, thậm chí… tự chế tạo.

Chẳng hạn, giá đỡ ống nội soi – gọi là “holder” – ở nước ngoài giá khoảng 60.000 USD. Tôi nhờ một người bạn làm cơ khí thiết kế lại bằng vật liệu cũ, tổng chi phí chỉ 15 triệu đồng, và anh ấy còn tặng luôn. Đến giờ, tôi vẫn dùng chiếc giá đỡ ấy và mang theo trong mỗi chuyến công tác. Tháng 11 này, khi vào Đà Nẵng mổ, tôi vẫn sẽ mang nó theo.

Có thể nói, chúng tôi “khởi nghiệp bằng sự nghèo khó”, nhưng chính sự thiếu thốn ấy buộc mình phải sáng tạo. Khi không có thứ tốt nhất, phải tạo ra thứ phù hợp nhất.

PGS Việt 2 lần được Nga mời mổ thị phạm: Tự mày mò làm chủ kỹ thuật mổ "đi du lịch trong não người"- Ảnh 2.

PGS.TS Đồng Văn Hệ đang thực hiện ca mổ thị phạm tại Nga (ảnh: Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức).

Ngọc Minh: Vậy theo ông, đâu là mốc đánh dấu Việt Nam thực sự làm chủ kỹ thuật nội soi thần kinh?

PGS.TS Đồng Văn Hệ: Chúng tôi bắt đầu triển khai kỹ thuật nội soi thần kinh từ năm 2003. Qua từng giai đoạn, đội ngũ đã làm chủ nhiều kỹ thuật chuyên sâu, gồm: nội soi điều trị não úng thủy, nội soi u tuyến yên (từ năm 2008), u sọ hầu (từ năm 2009), u màng não (năm 2010), cùng các bệnh lý liên quan đến dây thần kinh số V, VII và các khối u vùng hố sau (từ năm 2010).

Năm 2016, tôi chủ nhiệm đề tài cấp Nhà nước “Nghiên cứu ứng dụng nội soi trong phẫu thuật não”, được Bộ Khoa học và Công nghệ nghiệm thu và đánh giá rất cao. Đề tài còn được trưng bày tại Triển lãm thành tựu khoa học – công nghệ quốc gia nhân dịp Quốc khánh 2/9. Đó là dấu mốc khẳng định Việt Nam đã thực sự làm chủ kỹ thuật này.

Ngọc Minh: Vậy so với thế giới, Việt Nam đang ở vị trí nào trong lĩnh vực nội soi thần kinh?

PGS.TS Đồng Văn Hệ: Thực ra, nội soi não trên thế giới đã được nghiên cứu từ gần 100 năm trước, nhưng chỉ đến thập niên 1980 mới được ứng dụng rộng rãi khi thiết bị đủ tinh vi. Ca mổ u tuyến yên đầu tiên bằng nội soi được ghi nhận năm 1987.

Như vậy, Việt Nam bắt đầu từ năm 2003 chậm hơn thế giới khoảng 15 năm, một khoảng cách hoàn toàn chấp nhận được. Hiện nay, nhiều trung tâm lớn trong nước đã thực hiện thường quy, kết quả tương đương quốc tế. Ở một số lĩnh vực, như điều trị đau dây V, chúng ta còn có kinh nghiệm hơn vì số lượng bệnh nhân lớn.

Nhờ đó, tôi được mời chia sẻ kinh nghiệm tại nhiều hội nghị quốc tế ở Malaysia, Indonesia, Nga... Nhiều đồng nghiệp nước ngoài mong muốn sang Việt Nam học kỹ thuật này. Tôi luôn tin rằng: chúng ta không hề thua kém ai. Mỗi quốc gia có một trường phái riêng, và Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành điểm đến để trao đổi chuyên môn.

Niềm vui sau mỗi ca mổ

Ngọc Minh: Phẫu thuật thần kinh vốn là lĩnh vực đòi hỏi độ chính xác tuyệt đối. Với ông, điều gì là khó nhất?

PGS.TS Đồng Văn Hệ: Mỗi thao tác sai lệch chỉ một milimet cũng có thể khiến người bệnh tổn thương vĩnh viễn. Nhưng chính sự khắt khe ấy lại khiến tôi say mê. Mỗi khi thấy bệnh nhân đi lại được, nói cười được sau ca mổ – đó là phần thưởng vô giá. Tôi thường nói với học trò: “Không có hạnh phúc nào lớn hơn việc trả lại cuộc sống bình thường cho một con người.”

Ngọc Minh: Ông còn nhớ cảm xúc khi thực hiện ca nội soi thành công đầu tiên không?

PGS.TS Đồng Văn Hệ: Tôi nhớ rất rõ. Khi ca mổ hoàn thành, thấy bệnh nhân hồi phục nhanh, ít đau, khuôn mặt thư giãn, tôi biết rằng hướng đi của mình là đúng. Cảm giác khi ấy vừa hồi hộp, vừa phấn khích, vừa biết ơn đồng nghiệp và bệnh nhân đã tin tưởng.

Hơn nữa, hình ảnh trong não người qua ống nội soi thật sự kỳ diệu – mạch máu, dây thần kinh hiện lên sắc nét như một bức tranh sống động. Tôi hay đùa với đồng nghiệp: “Chúng ta đang đi du lịch trong não!”. Mỗi ca mổ là một cuộc hành trình đầy khám phá.

PGS Việt 2 lần được Nga mời mổ thị phạm: Tự mày mò làm chủ kỹ thuật mổ "đi du lịch trong não người"- Ảnh 3.

PGS.TS Đồng Văn Hệ chia sẻ cảm xúc về sự thành công của ca mổ nội soi đầu tiên (Ảnh: PV).

Ngọc Minh: Ông còn là người đầu tiên đưa kỹ thuật mổ não thức tỉnh vào thực hành tại Việt Nam một phương pháp được xem là vô cùng phức tạp và thách thức?

PGS.TS Đồng Văn Hệ: Khi phẫu thuật não, bác sĩ không thể nhìn bằng mắt thường để phân biệt đâu là vùng vận động, đâu là vùng ngôn ngữ. Nếu gây mê hoàn toàn, tất cả các vùng đều có màu sắc tương tự nhau. Chỉ cần cắt nhầm vào khu vực “nhạy cảm”, bệnh nhân có thể bị liệt hoặc mất khả năng nói và khi họ tỉnh lại, hậu quả đã không thể sửa chữa.

Với mổ thức tỉnh, bệnh nhân vẫn tỉnh táo trong quá trình phẫu thuật. Khi bác sĩ kích thích nhẹ vào vùng não, nếu yêu cầu bệnh nhân giơ tay mà họ không làm được đó là vùng vận động, cần tránh. Hoặc khi họ ú ớ không nói được, đó là vùng ngôn ngữ – tuyệt đối không được đụng tới. Nhờ vậy, bác sĩ có thể cắt bỏ khối u mà vẫn bảo tồn được chức năng vận động và ngôn ngữ. Đây là một kỹ thuật vừa nhân văn, vừa đòi hỏi trình độ cao.

Ngọc Minh: Tôi được biết kỹ thuật này từng bị gián đoạn ở Việt Nam. Điều gì khiến ông quyết tâm khôi phục lại?

PGS.TS Đồng Văn Hệ: Đúng vậy. Cách đây gần 20 năm, chúng tôi từng mời chuyên gia châu Âu sang Việt Nam để thực hiện, nhưng không thành công do cả nguyên nhân chủ quan lẫn khách quan. Khi không thể gây tê cho bệnh nhân, chúng tôi buộc phải dừng lại và quay về phương pháp gây mê truyền thống.

Vài năm trước, trong một hội nghị phẫu thuật thần kinh châu Á, tôi nghe một giáo sư Nhật trình bày về mổ não thức tỉnh. Bài nói khiến tôi bừng lên niềm đam mê cũ. Sau đó, chúng tôi bắt đầu chuẩn bị lại từ đầu - đào tạo con người, xây dựng quy trình, huấn luyện bệnh nhân, chuẩn bị đầy đủ trang thiết bị.

Chúng tôi cử bác sĩ sang Nhật học, còn các chuyên gia Nhật sang Việt Nam ba lần. Lần đầu họ kiểm tra công tác chuẩn bị, lần hai cùng chúng tôi thực hành, và lần ba, chúng tôi tự mổ họ chỉ quan sát và đánh giá. Tháng 3/2019, ca mổ thức tỉnh đầu tiên tại Việt Nam thành công. Khoảnh khắc ấy thật sự vỡ òa, bởi đó là kết quả của gần mười năm nỗ lực và kiên trì không bỏ cuộc.

Xin cảm ơn Phó Giáo sư về cuộc trò chuyện đầy cảm hứng về một người thầy thuốc không ngừng tìm tòi, sáng tạo và hết lòng vì người bệnh!

TIN CÙNG CHUYÊN MỤC
Xem theo ngày