Tọa lạc dưới chân núi Ngũ Nhạc (thôn An Mô, xã Lê Lợi, Thị xã Chí Linh, Hải Dương), khu di tích đền Sinh, đền Hóa được biết đến là vùng thắng tích núi non hùng vĩ gắn với những câu chuyện nhuốm màu sắc huyền bí. Đặc biệt, tại đây có khối đá hình phụ nữ đang sinh nở - tương truyền là dấu tích của Đức Thánh Phi Bồng càng khiến cho ngôi đền trở nên linh thiêng.
Đền Sinh - nơi có phiến đá "kỳ lạ".
Khối thạch mẫu mang hình mẹ sinh con
Đền Sinh, đền Hóa cách nhau chừng 800m. Dẫn tôi vào khu hậu cung đền Sinh, ông Vũ Xuân Sơn, Trưởng đền Sinh, đền Hóa cho hay, theo truyền thuyết, chân núi Ngũ Nhạc có 5 quả núi thờ 5 vị Sơn thần cai quản 5 phương.
Vào giờ Dần ngày 8 tháng 5 năm 542, trẻ mục đồng chợt nghe có tiếng khóc. Tìm mãi, đám trẻ chỉ thấy một tảng đá chừng hai chiếc chiếu bị nứt đôi, ở giữa là một thiên đồng với tiếng khóc vang như chuông. Đám trẻ liền lấy tay làm kiệu, lấy nón làm lọng, lấy khăn của trẻ gái làm cờ rước thiên đồng xuống núi.
Khi xuống đến đền Hóa, bất chợt giông tố nổi lên, bụi bay đá cuộn, thiên đồng liền bay vút về trời. Đám trẻ vẫn nghe được câu nói: "Ta là Phi Bồng Hạo Thiên giáng hạ nhưng nay bị lộ nên phải về chầu Ngọc Hoàng".
Dân làng bèn lập đền thờ thay cho hai ngôi miếu lợp gianh trước đó. Chỗ thiên đồng sinh ra lấy tên là đền Sinh, chỗ thiên đồng bay đi gọi là đền Hóa.
Còn theo thần tích trên một tấm bia khắc vào cuối thời Nguyễn tại đền Sinh thì Phi Bồng lại là một vị tướng quân sống vào thế kỷ thứ VI. Ông có công đánh giặc cứu nước, khi mất đi được nhân dân lập đền thờ. Trải qua nhiều thế kỷ, tiểu sử của ông đã được thần thánh hóa nhiều chi tiết để tăng thêm sự huyền ảo, thiêng liêng phù hợp với tín ngưỡng của người Việt.
Ông Sơn vén tấm rèm cửa màu vàng lấp lánh ánh kim để bước vào hậu cung, một không gian kỳ ảo với ánh điện màu đỏ hồng khiến mọi người có cảm giác như lọt vào chốn phiêu bồng. Một tấm vải màu đỏ rộng lớn bao trùm gần như toàn bộ phiến đá.
Ông lý giải: "Với phiến đá có hình phụ nữ sinh nở như thế, Ban quản lý khu di tích đã họp bàn, quyết định che tấm vải này lên để tạo sự kín đáo". Dẫu vậy, lối bài trí như thế cũng ít nhiều gây cho tôi cảm giác hụt hẫng.
Theo quan sát, phiến đá cao chừng 3m, rộng bằng hai chiếc chiếu. Ông Sơn cho biết, đây chính là thạch mẫu đã hạ sinh Đức thánh Phi Bồng. Khối đá tròn nằm ở vị trí trên cùng là đầu, khối đá phía dưới là bầu ngực, hai khối đá lớn, dài hai bên là đầu gối, ở giữa hai đầu gối có hai khối đá tượng trưng cửa bát nhã (nơi sinh nở của phụ nữ) và bào thai đang chào đời. Hai khối đá mé ngoài cùng là bàn chân. Như vậy, toàn bộ khối đá có hình một phụ nữ đang trong tư thế sinh nở - điều đặc biệt mà không nơi đâu có được.
Ông Sơn bên phiến đá hình phụ nữ sinh con.
50 - 70% xin con ở đền thành công (?!)
Cũng theo ông Sơn, chính khối đá này cùng những câu chuyện lưu truyền trong dân gian về Đức Thánh Phi Bồng đã khởi nguồn một nghi thức tồn tại hàng trăm năm nay, đó là tục cầu tự (xin con) tại đền Sinh.
Ông lý giải: Nghi thức này xuất hiện từ thế kỷ thứ 6. Thuở ấy, có hai vợ chồng ông Chu Thức và bà Hoàng Thị Ba ở trang Phấn Lôi (xã Thắng Cương, Yên Dũng, Bắc Giang ngày nay) đã ngoài 50 tuổi mà chưa sinh được một mụn con. Một đêm, ông bà được báo mộng đến miếu gianh bên trang An Mô (sau này là đền Sinh) mà cầu.
Hai vợ chồng liền sắm lễ vật sang miếu. Sau khi làm lễ, bước ra đến cửa, hai vợ chồng thấy một dấu chân. Bà Ba ướm thử thấy vừa như in, vết chân cũng biến mất. Quả đúng như giấc mộng, sau khi làm lễ, về nhà bà có mang rồi hạ sinh một cậu con trai đặt tên là Phúc Uy mặt mũi khôi ngô.
Năm 15, 16 tuổi Phúc Uy đã văn võ song toàn. Năm 19 tuổi, ông được vua Lý Nam Đế cử cầm quân đánh giặc Lương. Thắng giặc, ông được phong làm trấn thủ xứ Hải Dương. Sau, quân giặc lại kéo sang, ông tử trận bên Việt Yên, Bắc Giang và được lập đền thờ ở đó. Từ đó, những người hiếm muộn lại tìm về đền Sinh với mong muốn sinh được con.
Ông Phạm Văn Được năm nay 76 tuổi, nhà ở cách đền Sinh chừng 200m chính là người viết sớ xin con cho các cặp vợ chồng đến đền. Khi việc xin con thành công, cũng chính ông là người viết sớ giúp họ tạ ơn thần thánh.
Ông Được nhẩm tính: "Trung bình mỗi năm cũng có vài trăm trường hợp đến xin con. Theo quy ước ở đền, nếu sinh được con trai thì phải quay lại đền làm lễ tạ, con gái thì không cần. Tính ra, năm nào cũng có khoảng 50 - 70% đến tạ. Riêng năm Quý Mùi (2003) có sự đột biến khi 365 trường hợp đến xin con thì có 325 trường hợp quay lại làm lễ tạ. Còn năm nay mới chưa đến nửa năm đã có 113 trường hợp đến xin con thì gần 50 trường hợp quay lại tạ rồi".
Ông Được kể, có những trường hợp chỉ cần xin một lần là quay lại tạ. Lại có những trường hợp phải xin 4, 5 lần mới thành công.
Cũng đã ngót hai chục năm nay, với công việc viết sớ của mình, ông Được đã trở thành người thân của rất nhiều gia đình từ khắp trong Nam ngoài Bắc mà theo lời ông: "Nếu tôi có làm một cuộc dạo chơi xuyên Việt thì sẽ chẳng phải lo chỗ ăn, chỗ nghỉ, vì ở đâu cũng có người quen".
Mặc dù vậy, theo ông Trần Đình Trung, Phó Chủ tịch xã Lê Lợi: "Việc xin con này đơn thuần là đức tin. Do đó, người dân không nên thần thánh hóa, thổi phồng để rồi phụ thuộc vào nó quá nhiều mà bỏ qua những tiến bộ của y học hiện đại".
Theo ông Được, ít nhất có khoảng 50 - 70% xin con ở đền thành công.